Viết bài làm văn số 6 Nghị luận văn học | Ngữ văn 12

0

Soạn bài Viết bài làm văn số 6 Nghị luận văn học – ngữ văn 12 – chi tiết nhất Bài soạn dưới đây chúng tôi sẽ tóm tắt lại các kiến thức lý thuyết quan trọng liên quan đến dạng văn nghị luận văn học và gợi ý lập các dàn bài cho các đề trong sách giáo khoa Ngữ văn 12 tập 2, trang 68 để các bạn có thể tham khảo.

Viết bài làm văn số 6 Nghị luận văn học | Ngữ văn 12
Viết bài làm văn số 6 Nghị luận văn học | Ngữ văn 12

Tham khảo thêm:

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

A. Kiến thức trọng tâm:

– Văn nghị luận :Văn nghị luận là loại văn được viết nhằm để xác lập cho người nghe, người đọc một tư tưởng hoặc quan điểm nào đó. Văn nghị luận phải có những luận điểm rõ ràng, có lí lẽ và phải dẫn chứng thuyết phục. Những tư tưởng và quan điểm trong bài văn nghị luận phải hướng tới giải quyết những vấn đề đặt ra trong cuộc sống và trong xã hội thì mới có ý nghĩa.

– Yêu cầu khi làm dạng văn nghị luận: Phải đúng hướng, phải trật tự, phải mạch lạc, phải trong sáng, phải sinh động, hấp dẫn, sáng tạo. 

– Những thao tác chính của dạng văn nghị luận: giải thích, chứng minh, phân tích, bình luận, bác bỏ, so sánh,… 

– Khi làm bài văn nghị luận văn học cần chú ý các yêu cầu dưới đây:  phải nắm chắc các thao tác nghị luận về đoạn thơ, bài thơ, đoạn trích và các tác phẩm văn xuôi; Củng cố kiến thức cơ bản ở mỗi tác phẩm văn học như: về tác giả, hoàn cảnh sáng tác, giá trị nội dung, giá trị nghệ thuật, giá trị tư tưởng,…  Đối với thơ, thì cần chú ý đến hình thức thể hiện (về hình ảnh, nhịp điệu, cấu trúc, biện pháp tu từ,..). Đối với những tác phẩm văn xuôi: cần chú ý đến cốt truyện, nhân vật, tình tiết, đưa ra các dẫn chứng chính xác, giá trị hiện thực, giá trị nhân đạo, tình huống truyện.

B: Hướng dẫn lập dàn ý :

Đề số 1 – trang 68 – sgk – ngữ văn 12 – tập 2.

Lập dàn ý đề bài: Trong truyện Những đứa con trong gia đình, nhà văn Nguyễn Thi có nêu lên một quan niệm: chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”. Các bạn có cho rằng trong thiên truyện của nhà văn Nguyễn Thi quả đã có một dòng sông truyền thống liên tục chảy từ những lớp người đi trước như: tổ tiên, ông cha, cho đến những lớp người đi sau: chị em Chiến và Việt?

*Mở bài:

Trong truyện ngắn Những đứa con trong gia đình của Nguyễn Thi thực sự đã có một dòng chảy của truyền thống gia đình. Dòng sông ấy đã thực sự được chảy từ các thế hệ của cha anh đến thế hệ của những người chiến sĩ trẻ anh dũng thời kỳ chống Mĩ cứu nước. Trong quan niệm của nhà văn Nguyễn Thi, mỗi con người mỗi đời người trong một gia đình phải là một khúc sông trong một dòng sông truyền thống: “chuyện gia đình cũng dài như sông, mỗi thế hệ phải ghi vào một khúc. Rồi trăm con sông của gia đình lại cùng đổ về một biển, “mà biển thì rộng lắm […], rộng bằng cả nước ta và ra ngoài cả nước ta”.

*Thân bài:

1. Khúc thượng nguồn của dòng sông hiện ra qua hình tượng của chú Năm và má Việt

Truyền thống ấy được chảy từ các thế hệ của ông bà, cha mẹ, cô chú đến những đứa con mà kết tinh là ở hình tượng của chú Năm.

a) Chú Năm

Chú Năm không chỉ là người rất ham sông nước mà còn rất ham đạo nghĩa. Trong con người chú Năm phảng phất cái tinh thần của Nguyễn Đình Chiểu xa xưa.

– Chú Năm chính là một cuốn gia phả sống luôn hướng về truyền thống, sống với truyền thống, đại diện cho truyền thống và lưu giữ truyền thống (Qua những câu hò và cuốn sổ gia đình).

b) Má Việt: Hình tượng của người mẹ cũng là hiện thân của truyền thống.

– Một con người sinh ra là để chống chọi với gian nguy, khó nhọc “Cái gáy đo đỏ, đôi vai lực lưỡng, tấm áo bà ba đẫm mồ hôi, người sực mùi lúa gạo- thứ mùi của đồng áng của cần cù mưa nắng”.

– Ấn tượng sâu đậm nhất chính là khả năng kìm nén đau thương để sống, để có thể che chở cho đàn con và để tranh đấu.

– Người mẹ ấy không biết sợ, không biết chùn bước, kiên cường và rất cao cả.

2. Khúc sông sau của dòng sông được hiện ra qua hình tượng Chiến, Việt

– So với thế hệ người mẹ thì Chiến là khúc sông sau. Khúc sông sau bao giờ thì cũng chảy xa hơn khúc sông trước. Người mẹ mang nỗi đau mất chồng nhưng chưa kịp cầm súng còn Chiến rất mạnh mẽ quyết liệt, ghi tên đi bộ đội để trả thù cho ba má.

– Việt là chàng trai mới lớn lộc ngộ, rất vô tư

– Chất anh hùng ở Việt: Không bao giờ biết khuất phục; bị thương chỉ có một mình nhưng vẫn quyết tâm sống mái với kẻ thù.

– Việt đi xa hơn cái dòng sông truyền thống: Không chỉ lập chiến công mà ngay cả khi bị thương thì vẫn là người đi tìm giặc. Việt chính là hiện thân của cái sức trẻ.

“Rồi trăm sông ……… nước ta”

⇒ Điều đó có tức là, từ một dòng sông của gia đình nhà văn muốn ta nghĩ đến biển cả, đến đại dương của nhân dân và nhân loại.

⇒ Chuyện gia đình cũng chính là chuyện của cả dân tộc đang hào hùng chiến đấu bằng sức mạnh sinh ra từ những đau thương.

*Kết bài:

Nêu ý kiến của bản thân về câu nói của nhà văn Nguyễn Thi.

Đề số 2 – trang 68 – sgk – ngữ văn 12 – tập 2.

Lập dàn ý đề bài: Phân tích hình ảnh thơ mộng và chất trữ tình của những dòng sông Việt Nam qua hai bài tùy bút Người lái đò Sông Đà (của Nguyễn Tuân) và bài Ai đã đặt tên cho dòng sông? (của Hoàng Phủ Ngọc Tường).

*Mở bài:

– Giới thiệu đề tài đất nước quê hương trong nền văn học Việt Nam thời kì từ cách mạng tháng 8.

– Giới thiệu về hai tác phẩm.

– Giới thiệu đề bài.

*Thân bài:

a) Vẻ đẹp dòng sông Đà trong Người lái đò sông Đà:

Theo tác giả, sông Đà có hai tính cách cơ bản là: hung bạo và trữ tình, Sông Đà chỉ thơ mộng khi nó mang nét trữ tình.

Khi sông Đà chảy qua vùng bình nguyên thì nó trở nên hiền hòa và chính là bạn của con người chứ không phải là kẻ thù số một như ở đoạn phía trên. Tác giả nhìn con sông Đà ở đoạn này với những góc độ khác nhau.

– Khi ở trên cao nhìn xuống sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, ẩn hiện trong mây trời, hoa núi mùa xuân gợi những vẻ đẹp mơ màng, duyên dáng và kín đáo.

– Bên bờ nhìn xuống thì thấy dòng sông lấp loáng như một đứa trẻ nghịch gương, nhìn thấy nó như đằm đằm ấm ấm như gặp lại cố nhân => thể hiện vẻ hiền hòa và thân thiện.

– Dưới thuyền nhìn lên thấy được bờ sông hoang dại như bờ tiền sử, bờ sông hồn nhiên như nỗi niềm của cổ tích tuổi xưa … => gợi ra vẻ đẹp tự nhiên, giàu chất thơ, chất hội họa.

⇒ Tác giả dùng rất nhiều phép so sánh sáng tạo, với ngôn ngữ mềm mại, giọng văn nhẹ nhàng và những hình ảnh thơ mộng, dịu dàng nên đã vẽ được ra nhiều bức tranh giàu chất hội họa như: dòng sông ẩn hiện trong mây trời, con hươu ngẩng đầu ra khỏi ánh cỏ sương … để từ đó làm nổi bật lên hình ảnh dòng sông hiền hòa, thơ mộng và trong sáng. Dòng sông có vẻ đẹp của thi ca của nhạc họa.

Nhà văn Nguyễn Tuân đã khám phá dòng sông ở phương diện thẩm mỹ: được xem là một tác phẩm hội họa tuyệt vời mà tạo hóa đã ban tặng cho đất nước. So với ngôn ngữ sắc cạnh ở đoạn trên, thì ngôn ngữ ở đoạn này rất mềm mại, chứng tỏ rằng nhà văn có một vốn từ rất phong phú và sử dụng nó một cách điêu luyện, tài hoa.

b) Vẻ đẹp của sông Hương trong Ai đã đặt tên cho dòng sông – Hoàng Phủ Ngọc Tường:

Tác giả tả rất tỉ mỉ, từ thượng nguồn Trường Sơn, dòng Hương chảy qua núi đồi, cánh đồng, làng mạc, kinh thành rồi đổ ra đến biển Đông. Dòng sông được nhân hóa như một người con gái có dáng dấp, trang phục, gương mặt, tính cách, tâm hồn …

– Giữa dòng Trường Sơn, nó chính là bản trường ca của rừng già, rầm rộ giữa bóng cây đại ngàn … như cô gái di-gan phóng khoáng và man dại … nó có bản lĩnh rất gan dạ với một tâm hồn tự do và trong sáng.

– Khi ra khỏi rừng, sông Hương lại mang một sắc đẹp của sự dịu dàng và trí tuệ, như người mẹ phù sa, tâm hồn sâu thẳm đã đóng kín lại ở cửa rừng. Những ngọn đồi đã tạo nên những mảng phản quang lên gương mặt sông nhiều màu sắc trên nền tây nam thành phố: sớm xanh, trưa vàng, chiều tím.

– Giữa cánh đồng Châu Hóa đầy hoa dại, dòng sông như người đẹp đang ngủ mơ màng … uốn mình theo những đường cong thật mềm … sắc nước xanh thẳm.

– Giữa đám quần sơn lô xô ấy chính là giấc ngủ nghìn năm của những vua chúa đã được phong kín trong lòng những rừng thông u tịch, dòng sông đi qua giữa chốn bốn bề núi phủ mây phong lại mang một vẻ đẹp trầm mặc … kéo dài mãi đến lúc mặt nước phẳng lặng của nó gặp tiếng chuông chùa Thiên Mụ ngân nga …

– Từ đó, như tìm được đúng đường về, sông Hương lại vui tươi hẳn lên giữa những biền bãi xanh biếc của vùng ngoại ô. Giáp mặt thành phố thì sông Hương uốn một cánh cũng rất nhẹ sang đến Cồn Hến quanh năm sương khói mơ màng, làm cho dòng sông mềm hẳn đi và như một tiếng vâng không nói của tình yêu.

– Khi rời khỏi kinh thành, nó lại lưu luyến ra đi giữa màu xanh biếc của tre trúc … như sự nhớ điều gì mà chưa kịp nói, nó đột ngột đổi dòng để gặp lại thành phố lần cuối ở góc thị trấn Bao Vinh … như chút vương vấn, cả một chút lẳng lơ hết sức kín đáo của tình yêu … ấy chính là tấm lòng người Châu Hóa xưa mãi mãi chung tình với quê hương xứ sở.

⇒ Giọng văn mềm mại giàu chất nhạc và với ngôn từ giàu chất thơ đã lột tả hết được vẻ phong phú của dòng sông nhưng nổi bật nhất chính là vẻ duyên dáng, hiền hòa và trong xanh phẳng lặng như mặt nước hồ thu. Gương mặt của dòng sông đã phản chiếu tấm gương muôn màu và thanh âm của quê hương xứ sở. Chiều dài của dòng sông như chiều dài của một chuyến đi, cũng chính là hành trình lớn lên của một cuộc đời được đào thải hết những tính nết chưa đẹp để có thể giữ lại nét đáng yêu của tuổi đương thì, nên dòng chảy đã biểu lộ một tính cách có thay đổi được theo địa hình để vừa tô điểm thêm cho vẻ đẹp kinh thành như một con người của quê hương xứ Huế.

c) Sông Đà và sông Hương

Sông Đà được nhà văn Nguyễn Tuân so sánh như một con quái vật hung hãn khi qua vùng thác dữ hay như áng tóc của một người con gái hiền hòa thơ mộng; còn Hoàng Phủ Ngọc Tường so sánh sông Hương như một người con gái … (vì nó tên Hương?) Nhờ thể tùy bút và với lối so sánh tài hoa ấy mà người đọc có thể hình dung được từng đường nét, chi tiết vẻ đẹp phong phú của con sông và đó là nét đẹp chưa từng lặp lại ở bất cứ con sông nào trên thế giới.

⇒ Vẻ đẹp phong phú của dòng sông còn mang đến cảm hứng cho văn nhân nên sau đó những vần thơ đã được bắt nhịp để trở về tô điểm cho con sông. Sông Hương thành con sông của thi ca nhạc họa và bồi đắp phù sa văn hóa cho đất kinh thành. Biết bao niềm sung sướng tự hào của tác giả về dòng sông thơ mộng của quê mình.

*Kết bài:

– Cả hai nhà văn đều sử dụng thể tùy bút để khám phá những vẻ đẹp riêng của mỗi dòng sông, giúp người đọc có thể hiểu biết thêm về vẻ đẹp phong phú của cảnh quan đất nước.

– Hai đoạn trích đều bộc lộ lòng tự hào và tình yêu quê hương đất nước của cả hai nhà văn.

Đề số 3 – trang 68 – sgk – ngữ văn 12 – tập 1.

Lập dàn ý đề bài: Về một truyện ngắn trong nền văn xuôi hiện đại Việt Nam mà các bạn yêu thích.

*Mở bài:

– Kim Lân là nhà văn thuộc lớp các nhà văn đã thành danh từ trước Cách mạng Tháng 8 – 1945 với những truyện ngắn nổi tiếng về vẻ đẹp văn hoá xứ Kinh Bắc. Ông đã gắn bó với thôn quê, từ lâu đã am hiểu về những người nông dân. Đi kháng chiến, ông tha thiết muốn thể hiện được tinh thần kháng chiến của người nông dân.

– Truyện ngắn Làng được viết và in vào năm 1948, trên số đầu tiên của tạp chí Văn nghệ ở chiến khu Việt Bắc. Truyện nhanh chóng được khẳng định vì nó thể hiện thành công một thứ tình cảm lớn lao của dân tộc, tình yêu nước, thông qua một con người cụ thể và người nông dân với bản chất truyền thống cùng những chuyển biến mới trong tình cảm của họ vào thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp.

*Thân bài:

1. Truyện ngắn Làng của Kim Lân biểu hiện một tình cảm cao đẹp của toàn dân tộc, tình cảm quê hương đất nước. Với người nông dân thời đại cách mạng và kháng chiến thì tình yêu làng xóm quê hương đã hoà nhập trong tình yêu nước và tinh thần kháng chiến. Tình cảm đó vừa có tính truyền thống lại vừa có chuyển biến mới.

 

2. Thành công của nhà văn Kim Lân chính là việc đã diễn tả tình cảm, tâm lí chung ấy trong sự thể hiện rất sinh động và độc đáo ở một con người và ở nhân vật ông Hai. Ở ông Hai tình cảm chung đó mang rõ màu sắc riêng và in rõ cá tính mà chỉ riêng ông mới có.

a) Tình yêu làng, một bản chất mà có tính truyền thống trong ông Hai.

– Ông hay khoe làng, đó chính là niềm tự hào sâu sắc về làng quê.

– Cái làng đó với người nông dân có một ý nghĩa cực kì quan trọng trong đời sống vật chất và tinh thần.

b) Sau cách mạng ông đi theo kháng chiến và ông đã có những chuyển biến mới trong tình cảm.

– Được cách mạng giải phóng, ông tự hào về phong trào cách mạng của quê hương, việc việc xây dựng làng kháng chiến của quê ông. Khi phải xa làng, ông nhớ quá cái không khí “đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá…”; rồi ông lo không biết “cái chòi gác,… những đường hầm bí mật,…” đã xong chưa?

– Cái tâm lí ham thích theo dõi tin tức kháng chiến, thích bình luận và náo nức trước tin thắng lợi ở mọi nơi “Cứ thế, chỗ này giết một tí, chỗ kia giết một tí, cả súng cũng vậy, hôm nay dăm khẩu, ngày mai dăm khẩu, tích tiểu thành đại, làm gì mà thằng Tây không bước sớm”.

c) Tình yêu làng được gắn bó sâu sắc với tình yêu nước của ông Hai bộc lộ sâu sắc trong tâm lí của ông khi nghe tin làng theo giặc.

– Khi mới nghe tin xấu đó, ông sững sờ và chưa tin. Nhưng khi người ta kể rành rọt thì ông không tin không được và ông xấu hổ lảng ra về. Nghe họ chì chiết ông đau đớn chỉ cúi gầm mặt xuống mà đi.

– Về đến nhà, nhìn thấy các con, ông càng nghĩ càng tủi hổ vì chúng nó “cũng bị người ta rẻ rúng, hắt hủi”. Ông giận những người ở lại làng, nhưng điểm mặt từng người thì lại không tin họ đã “đổ đốn” ra thế. Nhưng cái tâm lí “không có lửa làm sao có khói”, lại bắt ông phải tin là họ đã phản nước hại dân.

– Ba bốn ngày sau, ông không dám đi ra ngoài. Cái tin nhục nhã ấy choán hết tâm trí ông thành những nỗi ám ảnh khủng khiếp. Ông luôn hoảng hốt giật mình. Cái không khí nặng nề bao trùm cả nhà.

– Tình cảm yêu nước và yêu làng còn được thể hiện sâu sắc trong cuộc xung đột nội tâm gay gắt đó là: Đã có lúc ông muốn quay về làng chỉ vì ở đây tủi hổ quá, vì bị đẩy vào bế tắc khi có tin đồn không đâu chứa chấp người làng chợ Dầu. Nhưng vì tình yêu nước, lòng trung thành với kháng chiến đã mạnh hơn tình yêu làng nên ông lại dứt khoát: “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Nói cứng như vậy nhưng thực ra lòng đau như cắt.

– Tình cảm đối với kháng chiến, đối với cụ Hồ đã được bộc lộ một cách cảm động nhất khi ông chút hết nỗi lòng vào lời tâm sự với đứa con út còn ngây thơ. Thực chất đó chính là lời thanh minh với cụ Hồ, với những anh em đồng chí và tự nhủ mình trong những lúc thử thách căng thẳng này:

  • Đứa con ông bé tí mà cũng đã biết giơ tay thề: “ủng hộ cụ Hồ Chí Minh muôn năm!” nữa là ông, bố của nó.
  •  Ông mong rằng”Anh em đồng chí biết cho bố con ông. Cụ Hồ trên đầu trên cổ xét soi cho bố con ông”.

→ Qua đó, ta thấy được rằng:

Tình yêu sâu nặng là đối với làng chợ Dầu truyền thống (chứ không phải cái làng mà đổ đốn theo giặc).

Tấm lòng trung thành tuyệt đối với cách mạng với kháng chiến mà biểu tượng của kháng chiến chính là cụ Hồ được bộc lộ rất mộc mạc, chân thành. Tình cảm đó thật sâu nặng, bền vững và vô cùng thiêng liêng: có bao giờ dám đơn sai. Chết thì chết có bao giờ dám đơn sai.

d) Khi cái tin kia được cải chính, gánh nặng tâm lí tủi nhục đã được trút bỏ, ông Hai vui sướng tột cùng và càng tự hào về làng chợ Dầu.

– Cái cách mà ông đi khoe việc Tây đốt sạch nhà của ông là biểu hiện cụ thể cái ý chí “Thà hi sinh tất cả chứ không chịu mất nước” của những người nông dân lao động bình thường.

– Cái việc mà ông kể rành rọt về trận chống càn ở làng chợ Dầu thể hiện rõ được tinh thần kháng chiến và niềm tự hào về làng kháng chiến của ông.

3. Nhân vật ông Hai đã để lại một dấu ấn không phai mờ là nhờ nghệ thuật miêu tả tâm lí tính cách và ngôn ngữ nhân vật của người nông dân dưới ngòi bút của nhà văn Kim Lân.

– Tác giả đặt nhân vật vào những tình huống thử thách bên trong để nhân vật bộc lộ được chiều sâu tâm trạng.

– Nhà văn Kim Lân miêu tả rất cụ thể, gợi cảm các diễn biến nội tâm qua ý nghĩ, hành vi, ngôn ngữ đối thoại và độc thoại. Ngôn ngữ của Ông Hai vừa có nét chung của những người nông dân lại vừa mang đậm cái cá tính nhân vật nên rất sinh động.

*Kết bài:

Qua nhân vật ông Hai trong truyện, người đọc thấm thía được tình yêu làng, yêu nước rất mộc mạc, chân thành mà lại vô cùng sâu nặng và cao quý trong những người nông dân lao động bình thường. Sự mở rộng và thống nhất tình yêu quê hương trong tình yêu của đất nước là một nét mới trong nhận thức và tình cảm của quần chúng cách mạng mà văn học thời kháng chiến chống Pháp đã chú trọng để làm nổi bật. Truyện ngắn Làng của nhà văn Kim Lân là một trong những thành công rất đáng quý. 

Ngoài ra, BUTBI đã tổng hợp một số tài liệu, văn mẫu, đề bài tập học tốt môn Văn THPT, các bạn có thể tải về miễn phí TẠI ĐÂY. Chúc các bạn học tốt nhé!