Trong bài viết dưới đây, Butbi đã giúp các em phân tích bài Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên đầy đủ và chi tiết nhất , qua đó giúp các em có cái nhìn cũng như có cảm nhận tốt hơn về tác phẩm, thấy được niềm hạnh phúc, tấm lòng gắn bó với nhân dân, đất nước trong công cuộc xây dựng cuộc sống mới mà nhà thơ muốn gửi gắm.
Tham khảo thêm:
- Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn học tác giả Chế Lan Viên
- Mẫu mở bài phân tích tiếng hát con tàu
- Soạn văn bài tiếng hát con tàu
- Các tác phẩm văn học lớp 12
1. Dàn ý chi tiết phân tích Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
A. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả – Chế Lan Viên và tác phẩm – Tiếng hát con tàu:
- Chế Lan Viên là một nhà thơ lãng mạn tiêu biểu của phong trào Thơ mới.
- “Tiếng hát con tàu” là tác phẩm tiêu biểu cho phong cách sáng tác của Chế Lan Viên, bài thơ thể hiện khát vọng lên đường, gắn bó với cuộc sống mới – một cuộc sống sôi động bằng tình yêu Tổ quốc và nhân dân, để lao động, khám phá và sáng tạo nghệ thuật.
B. Thân bài
a) Khái quát chung về tác phẩm – bài thơ Tiếng hát con tàu.
– Hoàn cảnh sáng tác: “Tiếng hát con tàu” được in trong tập “Ánh sáng và phù sa”, được viết nhân dịp cuộc vận động đồng bào miền xuôi lên xây dựng kinh tế ở miền núi Tây Bắc được mở ra trong những năm 1958 – 1960.
– Ý nghĩa của nhan đề bài thơ: đây là khúc ca say mê về tình yêu và lòng biết ơn sâu sắc với nhân dân, với đất nước của một tâm hồn thơ đã được tái sinh trong cách mạng và kháng chiến.
- Con tàu: đây là một hình ảnh mang ý nghĩa biểu tượng bởi tại thời điểm bài thơ ra đời chưa có tuyến đường sắt lên Tây Bắc. Hình ảnh con tàu ấy biểu tượng cho khát vọng lên đường về với nhân dân, hòa nhập vào cuộc sống lớn lao của đất nước.
- Tây Bắc: hiểu theo nghĩa đen thì nó chỉ mảnh đất miền tây Bắc Bộ của nước ta. Hiểu theo nghĩa biểu tượng thì nó chỉ cuộc sống rộng lớn và những miền đất xa xôi còn nhiều khó khăn, thiếu thốn của Tổ quốc.
b) Phân tích chi tiết
Luận điểm 1: Ý nghĩa của đoạn thơ đề từ:
– Câu hỏi tu từ được đặt ra ngay trong dòng thơ đầu: “Tây Bắc ư? Có gì riêng Tây Bắc…” nó được đặt ra để tự hỏi lòng, nó chứa đựng nỗi băn khoăn, trăn trở rất thực trong tâm trạng của nhà thơ nói riêng và của tầng lớp văn nghệ sĩ nói chung ở thời điểm lịch sử lúc bấy giờ.
⇒ Nhà thơ hóa thân mình thành con tàu, cuộc hóa thân kì diệu đó đã nói lên được sự gắn bó máu thịt giữa thi nhân với đất nước, với cuộc đời.
Luận điểm 2: Hai khổ thơ đầu như là lời giục giã, lời vẫy gọi của Tổ quốc với những câu hỏi ngày càng thôi thúc.
– Hình ảnh con tàu ngoài mang ý nghĩa biểu tượng ra nó còn là một hình ảnh là ẩn dụ nghệ thuật tượng trưng cho ước mơ, niềm khát vọng vượt ra khỏi một cuộc sống nhỏ hẹp quẩn quanh để đến với cuộc sống rộng lớn hơn của nhân vật trữ tình.
– Nhà thơ đã khéo léo ví von tâm hồn mình như một con tàu đang chạy hết tốc lực về với nhân dân, đất nước.
– Tây Bắc – không chỉ là một tên gọi cụ thể chỉ địa danh của một vùng đất xa xôi mà nó còn là một biểu tượng cuộc sống lớn lao của nhân dân và đất nước.
– Tây Bắc chính là mảnh đất nơi ươm mầm những cảm hứng của hồn thơ, của sáng tạo nghệ thuật. Vì thế, lời giục giã, lời vẫy gọi về với Tây Bắc cũng là lời nhắc về với chính lòng mình, với những tình cảm trong sáng, nghĩa tình gắn bó sâu nặng, thiết tha với nhân dân và đất nước.
Luận điểm 3: Chín khổ thơ tiếp theo thể hiện niềm hạnh phúc và khao khát về với nhân dân, đất nước; gợi nhớ lại những kỉ niệm sâu nặng nghĩa tình trong những năm tháng kháng chiến.
– Khung cảnh thiên nhiên cùng con người Tây Bắc nay đã đổi thay.
– Về với Tây Bắc là về vùng đất thân yêu của tâm hồn mình, là cuộc hành trình tìm về với Mẹ nhân dân – Mẹ Tổ quốc thân yêu.
– Những hồi ức về đồng bào các dân tộc vùng cao Tây Bắc được nhà thơ nhắc lại qua hình ảnh của những con người cụ thể như : người anh du kích, thằng em liên lạc, cô gái Tây bắc, mế ….
– Sự cưu mang, đùm bọc, tình yêu thương chân thành của con người Tây Bắc như đã tiếp thêm sức mạnh cho các chiến sĩ, cho nhà thơ trong cuộc kháng chiến chống Pháp và điều đó đã để lại những kĩ niệm sâu sắc không thể nào quên.
– Thể hiện rõ nét niềm khao khát mãnh liệt và niềm hạnh phúc vô bờ của nhà thơ khi trở về với nhân dân.
– Từ những kỉ niệm ân tình khó quên với đồng bào vùng cao Tây Bắc đó mà tác giả đã nâng lên thành những suy tư, những chiêm nghiệm giàu sức khái quát, những chân lí được rút ra ngay từ chính trải nghiệm của mình.
– Chính tình yêu đã biến những miền đất xa xôi, lạ lẫm trở thành thân thiết, gần gũi như quê hương ta, hoá thành máu thịt tâm hồn ta.
– Khi nói đến tình yêu và nỗi nhớ, nhà thơ đã không ngại ngần đã diễn tả thật hóm hỉnh và sâu sắc mối quan hệ bền chặt, sự gắn bó chặt chẽ giữa những người đang yêu bằng những hình ảnh rực rỡ đầy sắc màu mang đậm phong vị vùng cao.
– Với nghệ thuật đặc sắc trong bài thơ: Phép nhân hóa, ẩn dụ được sử dụng khéo léo có tính đa nghĩa. Nhịp điệu thơ biến đổi linh hoạt, lúc thì sôi nổi lúc thì da diết, lắng sâu.
Luận điểm 4: Bốn khổ thơ cuối là khúc hát lên đường sôi nổi, đầy sự tin tưởng và say mê.
– Lời vẫy gọi của đất nước, của nhân dân, của đời sống dường như là sự hối thúc mạnh mẽ, là lời giục giã của chính lòng mình, trở thành nỗi khát khao nóng bỏng.
– Những lời tự cổ vũ, động viên và khẳng định sự quyết tâm lên đường.
– Nhà thơ đã mượn hình ảnh tượng trưng trong ca dao xưa để nói lên vẻ đẹp cao quý của tâm hồn.
– Bài học triết lí nhân sinh và quan điểm sáng tác nghệ thuật được tác giả thể hiện trong những khổ thơ cuối:
- Hiện thực cuộc sống chính là mạch nguồn vô tận cho cảm hứng sáng tác của thi nhân.
- Văn chương luôn song hành và không thể tách rời hiện thực.
- Hiện thực là cơ sở để phát sinh cảm hứng trữ tình cách mạng…
C. Kết bài
– Khái quát lại nội dung và nêu lên cảm nghĩ, nhận xét chung về bài thơ
2. Sơ đồ tư duy phân tích Tiếng hát con tàu – Chế Lan Viên
3. Bài văn mẫu phân tích Tiếng hát con tàu Chế Lan Viên hay nhất
Chế Lan Viên một nhà thơ lớn tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Con đường sáng tác nghệ thuật của ông trải qua nhiều thăng trầm với những bước ngoặt lớn trong phong cách sáng tác cũng như tư tưởng chủ đạo, không còn là thế giới kinh dị, thần bí trong Điêu tàn, sau năm 1945, thơ ông đã thay đổi và rẽ hướng tập trung khai thác đề tài con người và đất nước trong kháng chiến. Những tác phẩm thơ của Chế Lan Viên mang đậm vẻ đẹp trí tuệ và giàu tính triết lý với những hình ảnh thơ chân thực, đa dạng, phong phú và đầy sức sáng tạo
“Ánh sáng và phù sa” được viết vào năm 1960 được xem là tập thơ đánh dấu bước ngoặt lớn nhất trong hồn thơ Chế Lan Viên sau cách mạng tháng Tám thành công. “Tiếng hát con tàu” là bài thơ được viết nhân dịp một sự kiện kinh tế chính trị xã hội quan trọng của đất nước đó là phong trào vận động nhân dân miền xuôi đi lên vùng Tây Bắc xây dựng kinh tế mới trong những năm 1958-1960, biến chiến trường xưa đổ nát trở thành một nông trường trù phú.
Hình ảnh “con tàu” trong nhan đề “Tiếng hát con tàu” là một sáng tạo nghệ thuật độc đáo, được nâng lên thành một biểu tượng cho phong trào nhân dân miền xuôi lên miền núi để xây dựng đất nước với niềm khát khao, tinh thần say mê, háo hức, sôi nổi. Không chỉ vậy, hình ảnh “con tàu” ấy còn là biểu tượng cho sự thay đổi tư tưởng của nhà thơ, bước ra từ những đau thương, mất mát buồn khổ sang sự vui tươi, hân hoan, hứng khởi, bước từ cái “tôi” cá nhân chuyển sang cái “tôi” chung của đất nước hòa nhập với cộng đồng. Ngoài ra hình ảnh “con tàu” còn là biểu tượng cho phong trào thâm nhập vào hiện thực cuộc sống để sáng tác của giới văn nghệ sĩ thời bấy giờ. Đi cùng với hình ảnh “con tàu” là “tiếng hát” say mê, “tiếng hát” ở đây là biểu hiện cho hứng khởi, là minh chứng cho sự tự nguyện của nhân dân ta khi lên “con tàu” đến với vùng Tây Bắc xây dựng kinh tế mới.
Đoạn thơ đề từ, tác giả đã mở ra những định hướng cho nội dung của toàn bài thơ.
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc
Khi lòng ta đã hoá những con tàu
Khi Tổ quốc bốn bề lên tiếng hát
Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”
“Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc” trong cùng một câu thơ mà hai từ “Tây bắc” được nhắc đến hai lần. “Tây bắc” là tên gọi của một địa danh rõ ràng, trong thơ ca đây là điều cấm kỵ, thế nhưng ở đây nó lại được lặp lại như vậy có lẽ là sự cố ý của tác giả, điều này ngầm diễn đạt tầm quan trọng của địa danh này trong tâm hồn của tác giả, đồng thời cũng dần mở ra đối tượng và chủ thể chính xuyên suốt bài thơ. “Tây bắc” vùng cực tây của xa xôi, hẻo lánh của Tổ quốc, đây cũng chính là cái nôi bảo bọc quân dân ta trong suốt 9 năm trời kháng chiến chống Pháp. Trong hiện tại Tây Bắc giờ đây đã không còn là bãi chiến trường ác liệt, tàn khốc nữa mà lại trở về là một mảnh đất nghèo nàn, khô càn đang rất cần những bàn tay chung sức xây dựng và phát triển. Kết cấu hỏi đáp trong câu thơ đầu của đoạn đề từ “Tây Bắc ư? Có riêng gì Tây Bắc”, còn nhằm biểu đạt không chỉ riêng mình Tây Bắc mà còn rất nhiều nơi xa xôi hẻo lánh, những vùng đất khô cằn khác trên khắp mảnh đất hình chữ S này cũng đang rất cần những bàn tay kiến thiết, xây dựng. Và cũng không chỉ riêng mảnh đất Tây Bắc này mới khơi nguồn cảm hứng cho người nghệ sĩ sáng tạo, mà tất cả những mảnh đất trên đất nước Việt Nam đều có thể trở thành nơi ươm mầm nguồn cảm hứng trong thi ca của giới văn nghệ sĩ trong đó có cả Chế Lan Viên. Sau khi đã khẳng định chắc nịch một điều rằng cần phải đến với mảnh đất Tây Bắc, cần phải đến những miền đất xa xôi của Tổ quốc, thì hai câu thơ sau đã nêu ra hai điều kiện để có thể thực hiện được trên hành trình lên đường ấy. Điều kiện chủ quan đó là bản thân mỗi chúng ta phải mang một khát vọng lên đường, điều kiện khách quan là Tổ quốc đã cất tiếng gọi, chính quyền đã có những chính sách khuyến khích con người lên đường xây dựng, phát triển kinh tế mới. Từ hai điều kiện ấy, đã đem đến kết quả là “Tâm hồn ta là Tây Bắc chứ còn đâu”. Có nghĩa rằng ta có thể hòa nhập với Tây Bắc, ta có thể góp sức mình xây dựng Tây Bắc trở nên giàu đẹp hơn và ngược lại Tây Bắc cũng sẽ mang lại những nguồn cảm hứng sáng tác bất tận cho nhiều văn nhân nghệ sĩ, Tây Bắc là cộng đồng chung của mọi nhà để ta có thể phá vỡ sự cô đơn hòa nhập với cộng đồng.
Ở hai khổ thơ đầu tiên nhà thơ đã viết về nỗi trăn trở và lời vẫy gọi lên đường tha thiết.
“Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?
Bạn bè đi xa, anh giữ trời Hà Nội
Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi
Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng
Đất nước mênh mông, đời anh nhỏ hẹp
Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?
Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép
Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”
Chế Lan Viên đã lần lượt mở ra hai không gian hoàn toàn đối lập nhau đó là Tây Bắc và Hà Nội. Nếu Tây Bắc hiện lên với những từ “đi xa”, “gió ngàn rú gọi”, “đất nước mênh mông”, “ngoài cửa ô” hay “trên kia”, gợi ra một không gian bao la rộng lớn dẫu rằng còn nhiều thiếu thốn, nghèo nàn nhưng đó vẫn không gian chung của nhân dân của cộng đồng, đầy tự do, thì không gian Hà Nội lại được tái hiện với những hình ảnh ngược lại như “giữ trời Hà Nội”, “đời anh nhỏ hẹp”, “lòng đóng khép”, gợi ra sự chật chội, tù túng, bó hẹp, nhỏ bé trong xa hoa, sung túc. Từ đó tác giả đã đưa ra một loạt các câu hỏi rằng “Con tàu này lên Tây Bắc, anh đi chăng?”, rồi “Anh có nghe gió ngàn đang rú gọi”, rồi “Ngoài cửa ô? Tàu đói những vành trăng” hay “Tàu gọi anh đi, sao chửa ra đi?” , những câu hỏi như được sắp xếp theo mức độ tăng tiến dần, đầu tiên chỉ là một lời ướm hỏi, mời mọc nhẹ nhàng khéo léo, sau đó tăng dần mức độ là lời “rú gọi” đầy hối thúc khẩn trương, giục giã lên đường. Rồi đỉnh điểm là sự dồn ép, yêu cầu người nghệ sĩ phải lựa chọn một cách mạnh mẽ, dứt khoát và nhanh chóng giữa mảnh đất xa hoa Hà Nội và vùng đất Tây Bắc nghèo nàn thiếu thốn. Tác giả sử dụng đại từ “anh”, để tự chất vấn mình, điều này thể hiện nỗi trăn trở suy tư, trăn trở của tác giả khi phải lựa chọn giữa việc lên đường xây dựng đất nước, tìm nguồn cảm hứng mới hay ở lại với bầu trời Hà Nội chật hẹp, gò bó. Và cuối cùng tác giả cũng lựa chọn một cách dứt khoát qua câu thơ: “Chẳng có thơ đâu giữa lòng đóng khép”, “Tâm hồn anh chờ gặp anh trên kia”. Tác giả khéo léo sử dụng lập luận phủ định để nói rằng chẳng có nghệ thuật nào được sản sinh ra từ cuộc đời bó hẹp, nhỏ bé làm nền cho việc khẳng định quyết định lên đường ra đi tìm nguồn cảm hứng sáng tác mới để hồi sinh hồn thơ của mình, gặp lại chính mình với tư cách của một người nghệ sĩ chân chính. Từ đó cũng khái quát lên mối quan hệ khăng khít giữa thơ ca và cuộc sống, hiện thực cuộc sống sẽ là ngọn nguồn của thi ca, như nhà văn Nam Cao đã từng viết rằng “Sống đã rồi hãy viết”.
Sau sự trăn trở, nỗi băn khoăn và lời mời gọi lên đường tha thiết mà tác giả tự nói với mình ở những câu thơ trên thì trong chín khổ thơ tiếp theo tác giả đã thể hiện niềm khát khao được quay trở về với mảnh đất kháng chiến khô cằn, khát khao được quay trở về với nhân dân, đất nước.
“Trên Tây Bắc! Ôi mười năm Tây Bắc
Xứ thiêng liêng rừng núi đã anh hùng
Nơi máu rỏ tâm hồn ta thấm đất
Nay rạt rào đã chín trái đầu xuân”
Khổ thơ này chính là nhận thức của tác giả về mảnh đất Tây Bắc, tác giả tiếp tục việc lặp lại hai lần liền từ “Tây Bắc” trong một câu thơ để thể hiện những tình cảm dâng trào, thắm thiết, sâu nặng của nhà thơ đối với mảnh đất Tây Bắc, nơi mà gần mười năm qua đã diễn ra cuộc kháng chiến khốc liệt của dân tộc. Trong quá khứ mảnh đất Tây Bắc là “xứ thiêng liêng”, bởi nó đã góp công lao rất lớn lập nên những chiến công “anh hùng” như Tố Hữu đã từng viết trong bài thơ Việt Bắc rằng:
“Núi giăng thành lũy sắt dày
Rừng che bộ đội rừng vây quân thù,…”
Điều đó thể hiện niềm tự hào sâu sắc về một mảnh đất Tây Bắc anh hùng. Không chỉ vậy mảnh đất Tây Bắc ấy còn là nơi đã chứng kiến những chiến tích lịch sử hào hùng, có cả những sự hy sinh, mất mát, những nỗi đau của dân tộc. Từ quá khứ đau thương tác giả chuyển hướng bắt đầu nhìn đến hiện tại, “Nay dạt dào đã chín trái đầu xuân”. Chính vì sự hy sinh thầm lặng, cao cả của bao nhiêu thế hệ con người, thì Tây Bắc mới được hồi sinh như ngày hôm nay với những vụ mùa bội thu, đạt được những thành quả đáng quý “dạt dào” thể hiện sức sống sôi trào, mãnh liệt, là những thành quả vô cùng to lớn.
Đến khổ thơ thứ tư lại chính là ý thức của tác giả về cuộc kháng chiến gian khổ của nhân dân ta trong suốt 9 năm ròng rã.
“Ơi kháng chiến! Mười năm qua như ngọn lửa
Nghìn năm sau, còn đủ sức soi đường
Con đã đi nhưng con cần vượt nữa
Cho con về gặp lại mẹ yêu thương”
Chế Lan Viên gọi kháng chiến với sắc thái trìu mến thiết tha, như đang gọi một người thân thiết của mình, ở đó không chỉ là nỗi đau mà còn là niềm tự hào, vinh dự trước thành công vẻ vang của dân tộc. Trong quá khứ, cuộc kháng chiến 9 năm dài đằng đẵng của dân tộc được so sánh “như ngọn lửa” mang ý nghĩa biểu tượng cho sự nhiệt thành cách mạng, gắn liền với những chiến công rực rỡ, vang dội và là ngọn lửa của lí tưởng soi đường cho các thế hệ thanh niên trẻ đang bế tắc. Đồng thời “ngọn lửa” ấy còn là ánh sáng soi đường chỉ lối cho các thế hệ sau này, các thế hệ của nghìn năm sau nữa, trở thành một định hướng về lý tưởng, về khát vọng cách mạng cho người dân Việt Nam trong các thế hệ nối tiếp. Từ đó tác giả vạch ra nhiệm vụ cho các thế hệ tương lai rằng “Con đã đi nhưng con cần vượt nữa”, nhắc lại quá khứ “con đã đi” và nhắc về cuộc lột xác của các lớp trí thức sau cách mạng tháng Tám. Rồi từ quá khứ ấy tác giả đã đặt ra nhiệm vụ, mục tiêu cho chính mình và các thế hệ mai sau rằng “cần vượt nữa”, cần có những cuộc lột xác khác, dứt khoát, mạnh mẽ và quyết liệt hơn hôm qua, cần biết từ bỏ khung trời cá nhân chật hẹp, tù túng, gò bó để đi đến với khung trời rộng lớn của nhân dân, chung tay góp sức xây dựng, kiến thiết kinh tế làm cho đất nước ngày càng giàu mạnh hơn . Mà cụ thể hơn là “Cho con về gặp Mẹ yêu thương”, cách gọi “Mẹ” đầy trìu mến yêu thương. “Mẹ” ở đây chính là nhân dân, là nguồn nuôi dưỡng cho kháng chiến đã qua, nguồn nuôi dưỡng cho cảm hứng sáng tác nghệ thuật của các văn nghệ sĩ.
Sau khi đưa ra những nhận thức về kháng chiến và nhiệm vụ, mục tiêu tiếp theo của mỗi con người, thì khổ thơ thứ 5 nhà thơ đã bộc lộ niềm hân hoan vui sướng khi gặp lại nhân dân.
“Con gặp lại nhân dân như nai về suối cũ
Cỏ đón giêng hai, chim én gặp mùa
Như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa
Chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”
Tác giả đã khéo léo khi dùng biện pháp so sánh mở rộng trùng điệp, “con gặp lại nhân dân” được ví như là “nai về suối cũ”, là “cỏ đón giêng hai” , “như đứa trẻ thơ đói lòng gặp sữa”, hay như “chiếc nôi ngừng bỗng gặp cánh tay đưa”. Tác giả sử dụng một loạt những hình ảnh nhỏ bé, dung dị, thân thuộc, đời thường và đều có một điểm chung đó là đang cạn kiệt sức sống, rồi bỗng gặp được nguồn nuôi dưỡng vô tận. Điều đó ứng với hình ảnh của một cái “tôi” giam mình trong khung trời chật hẹp, nhỏ bé và hình ảnh nhân dân vĩ đại, bao la. Khi trở về với nhân dân cái tôi của người nghệ sĩ dường như đã hồi sinh trở lại, lại tràn trề dạt dào sức sống, với tâm trạng hân hoan, háo hức, vui sướng và mê say. Từ đó khái quát được một chân lý hạnh phúc to lớn nhất là khi được trở về với cuộc đời rộng mở của nhân dân.
Từ đó, nhà thơ lại đi vào cụ thể hóa hình ảnh của nhân dân thông qua các khổ thơ tiếp theo 6, 7, 8.
“Con nhớ anh con, người anh du kích
Chiếc áo nâu anh mặc đêm công đồn
Chiếc áo nâu suốt một đời vá rách
Đêm cuối cùng anh cởi lại cho con
Con nhớ em con, thằng em liên lạc
Rừng thưa em băng, rừng rậm em chờ
Sáng bản Na, chiều em qua bản Bắc
Mười năm tròn! Chưa mất một phong thư
Con nhớ mế! Lửa hồng soi tóc bạc
Năm con đau, mế thức một mùa dài
Con với mế không phải hòn máu cắt
Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”
Nhân dân giờ đây không còn là một khái niệm chung chung trừu tượng nữa mà đã được cụ thể hóa thông qua hình ảnh những con người gần gũi thân thương, được tác giả xưng hô một cách thân tình “anh-con”, “em-con”, “mế”, như là những người ruột thịt trong gia đình của mình. Nhân dân được hiện lên với hình ảnh “người anh du kích” đi cùng với chi tiết “chiếc áo nâu” . Khi hình ảnh đó gắn với hình ảnh “suốt một đời vá rách”, cho ta thấy được cuộc sống lam lũ, thiếu thốn, nghèo khổ, có phần tội nghiệp của người anh du kích, nhưng khi gắn với hình ảnh “đêm công đồn”, thì lại hiện lên hình ảnh của một người du kích hết sức dũng cảm, gan dạ, hào hùng, oanh liệt, khi gắn với hình ảnh “đêm cuối cùng anh gửi lại cho con”, lại thấy được tình cảm yêu thương vô bờ dành cho các em của mình của người anh du kích.
Ở khổ thơ tiếp theo hình ảnh nhân dân còn được hiện lên thông qua “thằng em liên lạc”. Người em liên lạc hiện lên trong không gian “rừng rậm”, từ “bản Na”, qua “bản Bắc”, bước chân của em dường như in dấu trên mọi nẻo đường Tây Bắc, hiện lên trong thời gian “sáng-chiều”, “mười năm tròn”, nói lên rằng bước chân của em luôn bền bỉ, băng qua suốt cả quãng thời gian dài kháng chiến để đem đến thắng lợi cho dân tộc. Với tất cả những điều đó, cuối cùng đã đạt được kết quả vô cùng xuất sắc “Mười năm tròn chưa mất một phong thư”.
Trong khổ thơ thứ tám, thì nhân dân lại hiện lên thông qua hình ảnh “mế” (người mẹ), thể hiện mối quan hệ khăng khít gắn bó như ruột thịt. Hình ảnh “mế” gắn với chi tiết “lửa hồng soi tóc bạc”, nhằm thể hiện mái tóc ấy đã in dấu thời gian, sương gió phôi pha của cuộc đời. Mế đã tái sinh cuộc đời con một lần nữa qua những “mùa dài” thức trông con ốm bệnh. Để đến cuối cùng tác giả đi đến một lời khẳng định sâu sắc: “Con với mế không phải hòn máu cắt” / “Nhưng trọn đời con nhớ mãi ơn nuôi”, bộc lộ lòng biết ơn, tình yêu thương, gắn bó tha thiết vô tận kéo dài mãi không thôi mà nhà thơ dành cho nhân dân.
Cảm xúc dần thay đổi khi tác giả chuyển từ nhớ người sang nhớ cảnh được thể hiện ở khổ thơ thứ 9.
“Nhớ bản sương giăng, nhớ đèo mây phủ
Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?
Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở
Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”
Nếu như Tố Hữu với “Nhớ gì như nhớ người yêu” – một nỗi nhớ chẳng thể gọi tên hay Quang Dũng “Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi” một nỗi nhớ vô định không đầu không cuối, thì nỗi nhớ của Chế Lan Viên lại được định hình một cách rõ ràng, cụ thể. Biện pháp điệp từ “nhớ” vừa dùng để nhấn mạnh, vừa để thể hiện nỗi nhớ trào dâng trong tâm hồn, nào là “bản sương giăng”, “đèo mây phủ”, vốn là những vẻ đẹp mang nét đặc trưng của núi rừng Tây Bắc. Từ những xúc cảm riêng ấy tác giả đã nâng lên thành quy luật tình cảm của con người, trong câu “Nơi nào qua, lòng lại chẳng yêu thương?. Cũng từ quy luật ấy tác giả lại một lần nữa nâng lên thành một triết lý “Khi ta ở, chỉ là nơi đất ở” / ”Khi ta đi, đất đã hoá tâm hồn!”, dựng lên một cặp đối lập “khi ta ở” và “khi ta đi”. Lúc ta ở thì đất chỉ là một địa danh vô tri vô giác, là một nơi xa lạ nhưng khi ta đi thì mảnh đất ấy đã trở thành kỷ niệm, trở thành một phần trong trái tim trong tâm hồn ta, nó gắn bó thân thiết lạ kỳ.
Từ nỗi nhớ về nhân dân, nhớ về cảnh vật Tây Bắc tác giả lại chuyển mình sang sang sự suy ngẫm về tình yêu và đất lạ.
“Anh bỗng nhớ em như đông về nhớ rét
Tình yêu ta như cánh kiến hoa vàng
Như xuân đến chim rừng lông trở biếc
Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương
Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”.
Tiếp tục với mạch cảm xúc dạt dào khi nhớ về nhân dân, nhớ về cảnh vật tác giả chuyển sang nỗi nhớ bất chợt về người yêu. Nỗi nhớ ấy được diễn đạt bằng một hình ảnh rất độc đáo đó là “như đông về nhớ rét”. Cá giá rét chính là linh hồn của mùa đông, “mùa đông” – “giá rét” chúng gắn bó chặt chẽ với nhau, và nỗi nhớ khắc khoải ấy cũng vậy, bắt buộc phải cùng tồn tại và làm nên giá trị của nhau. Từ nỗi nhớ lại chuyển sang suy ngẫm về tình yêu, tình yêu ấy được so sánh với “cánh kiến hoa vàng”, hay như “Xuân đến chim rừng lông trở biếc”. Cánh kiến chỉ sống được trên thân cây chủ là hoa vàng và ngược lại cây thân gỗ hoa vàng cũng rất cần có cánh kiến để tạo ra những giá trị quý giá, điều đó có nghĩa là chúng không thể tách rời nhau, ngược lại chúng gắn bó cực kỳ khăng khít và bền chặt.
Mùa xuân đến vạn vật như được hồi sinh, trong đó có cả loài chim rừng, bộ lông vốn xác xơ của nó nay được trở lại với cái vẻ mượt mà, óng ả, điều đó cũng làm cho mùa xuân thêm rực rỡ, diễn tả quan hệ gắn bó thắm thiết của tình yêu đôi lứa. Cuối cùng từ nỗi nhớ, từ tình yêu ấy Chế Lan Viên đã nâng nó lên thành một triết lý “Tình yêu làm đất lạ hoá quê hương”. Trong nỗi nhớ về em, tác giả đã theo mạch nói về tình yêu của đôi ta, gợi lại những kỷ niệm đôi lứa trong những tháng ngày kháng chiến. Đó là cái nắm tay ở “cuối mùa chiến dịch”, cái nắm tay đó không chỉ thuần túy là của tình yêu đôi lứa, mà nó còn là cái nắm tay của tình quân dân, thể hiện tinh thần đoàn kết, toàn dân góp phần làm nên chiến thắng vinh quang của dân tộc. Là mùi hương của vắt xôi nuôi chiến sĩ, nồng nàn lan tỏa cho đến tận bây giờ, thể hiện tình người ấm áp, tình quân-dân tha thiết, gắn bó.
Bốn khổ thơ cuối bài chính là khúc hát lên đường vang dội của nhà thơ.
“Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?
Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ
Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội
Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”
Mở ra cho khổ thơ thứ 13 lại là một câu hỏi tu từ quen thuộc “Đất nước gọi ta hay lòng ta gọi?”, nói lên việc quyết định lên đường là do đất nước vẫy gọi, quan trọng hơn đó là do lòng ta vẫy gọi, thôi thúc. Quyết định ấy xuất phát từ những điều giản đơn “Tình em đang mong, tình mẹ đang chờ”, là nhân dân Tây Bắc đang tha thiết vẫy gọi, điều đó khiến ta không thể chần chừ thêm được nữa mà vội hối thúc:
“Tàu hãy vỗ giùm ta đôi cánh vội”
“Mắt ta thèm mái ngói đỏ trăm ga”.
Tác giả đã dùng kiểu câu cầu khiến để đưa ra mệnh lệnh, diễn tả sự vội vàng, cuống quýt, thúc giục khiến ta không thể chậm trễ. Hình ảnh “vỗ cánh”, mang ý nghĩa biểu tượng khiến chúng ta liên tưởng đến việc nhà thơ đang muốn bay lên vượt ra khỏi khung trời nhỏ bé, chật chội của đời sống cá nhân để vươn tới khung trời rộng lớn của nhân dân, thể hiện niềm khát khao cháy bỏng của nhà thơ. Khao khát được chung tay góp phần tạo lên sự đổi mới tươi đẹp cho đất nước, tạo dựng một cuộc sống ấm no cho nhân dân.
Sau những lời giục giã, thôi thúc ấy nhà thơ đã chính thức lên đường với khí thế được thể hiện qua:
“Mắt ta nhớ mặt người, tai ta nhớ tiếng
Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào
Rẽ người mà đi, vịn tay mà đến
Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”
Lại một lần nữa sử dụng cấu trúc điệp, thể hiện sự vội vàng, tinh thần hăng hái, đầy nhiệt huyết lên đường tạo lên sức mạnh đoàn kết, thể hiện thái độ hứng khởi, nhiệt tình, say mê. Vì đích đến phía trước đang rộng mở ra vẫy gọi, thể hiện qua hình ảnh “Mùa nhân dân giăng lúa chín rì rào”, diễn tả những vụ mùa bội thu, sự vui tươi, náo nhiệt, niềm vui sướng khắp mảnh đất Tây Bắc, và “Mặt đất nồng nhựa nóng của cần lao”, gợi ra một không khí lao động nhiệt thành, hăng hái, tràn đầy sức sống.
Trong khí thế lên với mảnh đất Tây Bắc, trở về với nhân dân, đất nước, tác giả bỗng chợt nhớ về quá khứ và có sự so sánh với hiện tại trong khổ thơ (khổ 14) :
“Nhựa nóng mười năm nhân dân máu đổ
Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ
Mười năm chiến tranh, vàng ta đau trong lửa
Nay trở về, ta lấy lại vàng ta”.
Nhớ lại quá khứ bi thương đó là những ngày “mười năm nhân dân máu đổ”, mười năm trường kỳ kháng chiến chống Pháp đầy gian lao, đầy mất mát đau thương, biết bao nhiêu thế hệ cha anh đã ngã xuống, để rồi “vàng ta đau trong lửa”, đây là biểu tượng cho những giá trị quý giá nhất, chỉ vẻ đẹp của cả thiên nhiên và con người Tây Bắc, tiềm năng kinh tế dồi dào, là nguồn mạch cảm hứng sáng tác quý giá. Chiến tranh đã vùi dập tất cả những giá trị trân quý ấy. Quay trở về hiện tại tác giả thấy được sự tiếp nối trong đối lập “nay trở về, ta lấy lại vàng ta”, khôi phục lại dáng vẻ tươi đẹp của Tây Bắc, tìm lại nguồn cảm hứng sáng tác dồi dào. Cuối cùng ông nhận ra một chân lý rằng “Tây Bắc ơi, người là mẹ của hồn thơ”.
“Lấy cả những cơn mơ! Ai bảo con tàu không mộng tưởng?
Mỗi đêm khuya không uống một vầng trăng
Lòng ta cũng như tàu, ta cũng uống
Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”
Về vùng đất Tây Bắc lấy lại vàng ta, lấy lại cả những cơn mơ, những mộng tưởng, lấy cả những niềm tin, niềm hi vọng về tương lai huy hoàng của dân tộc. Trong niềm hứng khởi ấy nhà thơ lại tiếp tục tái hiện hình ảnh con tàu đang thảnh thơi thụ hưởng “vầng trăng”, đó là biểu trưng cho vẻ đẹp của cuộc đời, của thiên nhiên, của con người Tây Bắc. Và chính bản thân tác giả cũng đang tận hưởng những vẻ đẹp ấy thông qua hình ảnh uống “Mặt hồng em trong suối lớn mùa xuân”, dường như vẻ đẹp của cuộc đời kia có dáng hình, thể hiện sự tận hưởng trọn vẹn, đã đầy và no nê.
Như vậy ta thấy, “Tiếng hát con tàu” là bài thơ thể hiện niềm khát vọng và hân hoan, vui sướng trong tâm hồn của nhà thơ khi được trở về với nhân dân, để tìm lại cái nguồn nuôi dưỡng cho cảm hứng sáng tạo nghệ thuật và cho hồn thơ của mình. Nghệ thuật đặc sắc của bài thơ được thể hiện ở sự sáng tạo hình ảnh gắn với những liên tưởng phong phú , độc đáo, bất ngờ, tạo nên một vẻ đẹp tinh tế rực rỡ cho thơ ca của Chế Lan Viên, bên cạnh đó thơ ông còn đặc biệt bởi sự thống nhất, hài hòa giữa trí tuệ và cảm xúc, đem đến cho độc giả những triết lý suy tưởng sâu xa.
Đây là bài phân tích khá dài bởi nó phân tích đầy đủ, chi tiết toàn bài thơ Tiếng hát con tàu của Chế Lan Viên, mong rằng Butbi đã đem lại phần kiến thức bổ ích cho các bạn.