Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu bao gồm dàn ý, sơ đồ tư duy và những bài văn mẫu siêu hay. Qua những bài phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc giúp các bạn học sinh có thể hình dung ra được cách thức, các bước đi và hướng giải quyết những vấn đề nêu ra trong đề bài. Học sinh có thể dựa vào để viết thành một bài văn hoàn chỉnh.
Bức tranh tứ bình đã được xem là những vần thơ tuyệt bút trong tác phẩm Việt Bắc. Bức tranh tứ bình này khiến cho người đọc thêm yêu, thêm hiểu hơn những cảnh vật và con người nơi đây. Vậy sau đây là những bài phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc, mời các bạn cùng theo dõi những bài văn mẫu sau.
Tham khảo thêm:
1. Dàn ý phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc
a) Mở bài phân tích bức tranh từ bình Việt Bắc
– Giới thiệu đôi nét về tác giả Tố Hữu: là một nhà thơ, một nhà thơ trữ tình chính trị và thơ ông luôn phản ánh những chặng đường đấu tranh cực gian khổ sống cũng nhiều thắng lợi của dân tộc.
– Giới thiệu tác phẩm Việt Bắc: là một bài thơ xuất sắc của tác giả Tố Hữu tổng kết về cuộc kháng chiến của anh hùng của dân tộc, là lời tri ân thật sâu nặng về tình nghĩa cách mạng.
– Bức tranh tứ bình đã được xem là những vần thơ tuyệt bút trong bài thơ Việt Bắc của Tố Hữu.
b) Thân bài Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc
* Khái quát đôi nét về bài thơ Việt Bắc
– Hoàn cảnh sáng tác: là nhân sự kiện chiến dịch Điện Biên phủ thắng lợi và Trung ương Đảng và Chính phủ rời chiến khu từ Việt Bắc đến thủ đô, tác giả Tố Hữu đã viết bài thơ này.
– Những câu từ trong bức tranh tứ bình là lời của người ra đi gửi đến những người ở lại.
– Với hai câu thơ đầu của đoạn thơ là lời ướm hỏi của người ra đi băn khoăn về tình cảm những người ở lại với mình để từ đó giãi bày tâm tư, với nỗi nhớ về thiên nhiên và con người Việt Bắc.
* Luận điểm 1: Bức tranh của mùa đông
– “Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi”: đã sử dụng bút pháp chấm phá: nổi bật trên nền xanh thật rộng lớn của núi rừng là màu đỏ của những ngọn hoa chuối (màu đỏ hoa chuối gợi liên tưởng đến hình ảnh ngọn đuốc xua đi những cái lạnh của của núi rừng mùa đông) và màu vàng của những đốm nắng vàng.
– “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”: những hình ảnh tia nắng ánh lên từ con dao gài thắt lưng đã gợi dáng vẻ khỏe khoắn, lớn lao của người lao động, với những tâm thế làm chủ thiên nhiên, và cuộc sống.
* Luận điểm 2: Bức tranh mùa xuân Việt Bắc
– “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”: là màu trắng tinh khôi của hoa mơ tràn ngập không gian núi rừng, nơi thiên nhiên tràn đầy nhựa sống khi xuân về.
– Người lao động đã hiện lên với vẻ đẹp tài hoa, khéo léo và cần mẫn: “Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang” và “chuốt từng sợi giang”: hành động chăm chút và tỉ mỉ với từng thành quả lao động của chính mình.
* Luận điểm 3: Bức tranh mùa hạ nồng nàn
– “Ve kêu rừng phách đổ vàng”: đó là toàn bộ khung cảnh thiên nhiên như đột ngột chuyển sang sắc vàng rộm qua động từ “đổ”
- Có thể liên tưởng màu vàng hòa quyện với tiếng ve kêu tưng bừng, đầy sức sống của con người nơi đây
- Cũng có thể thấy chính tiếng ve đã đánh thức rừng phách nở hoa.
– “Nhớ cô em gái hái măng một mình”: “cô em gái” chính là cách gọi thể hiện sự trân trọng, yêu thương của tác giả đối với con người Việt Bắc, hình ảnh cô gái hái măng một mình thể hiện sự chăm chỉ tột cùng của chịu thương chịu khó của con người Việt Bắc.
* Luận điểm 4: Bức tranh mùa thu, mùa của thơ mộng
– “Rừng thu trăng rọi hòa bình”: ánh trăng nhẹ nhàng đã chiếu sáng núi rừng Việt Bắc, đó chính là ánh sáng của “hòa bình”, niềm vui niềm tự do.
– Con người đã say sưa cất tiếng hát, mộc mạc, chân thành, có tấm lòng thủy chung và nặng ân tình.
* Đánh giá chung:
– Nêu cảm nhận chung về một bức tranh tứ bình: Nghệ thuật tứ bình đã tạo sự cân đối hài hòa và rất có tác dụng khắc họa toàn diện vẻ đẹp của đối tượng, bốn bức tranh trên đã tôn lên giá trị của nhau, không thể tách riêng ra, chúng là bức tranh tuyệt sắc có sự hòa quyện giữa con người và núi rừng thiên nhiên.
c) Kết bài phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc
– Khái quát lại nét nghệ thuật đặc sắc và phong cách thơ Tố Hữu: nhưng tính dân tộc đậm đà (thể thơ lục bát, và kết cấu đối đáp trong văn học dân gian, với ngôn ngữ giản dị, hình ảnh thơ gần gũi, giọng thơ thiết tha.)
– Tổng kết giá trị nội dung toàn bộ bài thơ: là khúc hùng ca, khúc tình ca về cách mạng, về cuộc kháng chiến và những con người kháng chiến.
2. Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu (mẫu 1)
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh rất nhiều tác giả với những cống hiến quan trọng. Mỗi giai đoạn lịch sử khác nhau lại đã có những dấu mốc văn học khác nhau. Trong đó, không thể không nhắc đến nhà thơ Tố Hữu – một nhà thơ xuất sắc của nền văn học Việt Nam, với những hình ảnh người lính anh dũng cùng tình cảm gắn bó sâu nặng với đồng bào nơi núi rừng Việt Bắc, ông đã mang đến cho bạn đọc một góc nhìn khác vô cùng trữ tình về người lính trong thời chiến thông qua bài thơ Việt Bắc. Nổi bật trong bài thơ là những hồi ức của những người ra đi về bức tranh tứ bình Việt Bắc:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.”
Mười câu thơ trên là hình ảnh đan xen giữa thiên nhiên và con người Việt Bắc trong tâm trí của những người ra đi. Mở đầu, người ra đi khẳng định tình cảm của bản thân mình dành cho những người ở lại:
Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Câu thơ đầu tiên sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, ở câu thơ thứ hai là tự trả lời. Với Tố Hữu, những người cán bộ ra đi không chỉ nhớ về đến ngày tháng gian khổ và khó khăn “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng”, mà còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người nơi ấy. Ở đây, hoa tượng trưng cho vẻ đẹp của thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người Việt Bắc với những tấm áo chàm nghèo khổ nhưng đậm đà lòng son. Hoa và Người quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp rất hài hòa đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất hiền hòa này. Chính điều ấy đã tạo nên một cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ.
Sau khi khẳng định nỗi nhớ của chính mình dành cho thiên nhiên và con người Việt Bắc, người ra đi đã cụ thể hóa nỗi nhớ ấy qua từng mùa trong năm, mở đầu là mùa đông ấy:
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Điểm xuyết trên cái nền trời màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng vàng của mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa và vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam màu nóng của những bông hoa chuối nổi lên trên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, làm cho thiên nhiên nơi Việt Bắc trở nên tươi sáng, ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi những cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Cùng hiện lên với những cái lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương và phát rẫy. Trước thiên nhiên bao la, của con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, và hùng tráng hơn. Giữa núi và nắng, giữa trời cao và bao la rừng núi, mênh mang. Con người ấy đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông nơi Việt Bắc.
Kết thúc mùa đông, mùa xuân hiện ra với vẻ đẹp tinh khôi:
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Bao trùm lên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, và tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng: “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ và từ “trắng” được dùng như động từ cũng có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, màu trắng dường như đã lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả một khu rừng bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa ban mơ. Mùa xuân càng đã trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đẹp tự nhiên trong công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ đã nói lên bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, khéo léo, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo của những con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong âm thanh đã rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc lại được sống động hơn bao giờ hết:
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Thời điểm ve kêu cũng chính là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ mạnh “đổ” diễn tả sự vàng lên đồng loạt của những hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn dường như làm cho nguồn ánh nắng của những mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng trở nên đã óng vàng ra. Chỉ trong một câu thơ bên trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển và sống động: tiếng ve kêu báo hiệu mùa hè đến và cây phách đã ngả sang màu vàng rực rỡ. Hiện lên trong cái thiên nhiên óng vàng và cực rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn đi hái búp măng rừng đã cung cấp cho bộ đội kháng chiến: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng như một mình mà không gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, nơi hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xa xưa; trái lại rất trữ tình, thơ mộng và gần gũi thân thương tha thiết. Hình ảnh thơ cũng đã gợi lên được vẻ đẹp chịu thương chịu khó của cô gái. Đằng sau đó, đã ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, trân trọng của tác giả Tố Hữu.
Khép lại bức tranh tứ bình đó chính là mùa thu thanh bình, êm ả:
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung.
Không gian đã bao la tràn ngập ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do, của hòa bình rọi sáng nên niềm vui lên từng núi rừng, từng bản làng nơi Việt Bắc. Bức tranh mùa thu Việt Bắc cũng đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và khép lại bằng đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho người về và cả những người đọc những rung động sâu xa tình yêu quê hương đất nước.
Cả đoạn trích như một bản nhạc sôi động, nhịp nhàng, tha thiết được hòa tấu bởi là khúc tình ca, khúc trường ca về cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, về con người kháng chiến anh hùng. Thông qua khúc nhạc đẹp đẽ, đã hào hùng ấy nhà thơ đã bộc lộ được những tình cảm tha thiết, rất sâu đậm của mình dành cho vùng núi rừng Việt Bắc, ngợi ca tình đồng chí, và nghĩa tình đồng bào. Qua đó, tác giả cũng nhắn nhủ đến người đọc, người nghe đừng quên những trang sử hào hùng của dân tộc, những trang sử đã thấm đẫm máu và nước mắt, cũng là những trang sử thấm đượm tình cách mạng và lòng yêu nước sâu sắc.
3. Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu (mẫu 2)
Tố Hữu là một trong những nhà thơ tiêu biểu cho nền văn Việt Nam hiện đại. Ông là một nhà thơ với suy nghĩ tư tưởng cộng sản, một nhà thơ lớn, và thơ ông gắn liền với cách mạng. Tố Hữu còn gắn bó với nhân dân sâu sắc, vì vậy mà trong các tác phẩm của ông luôn gần gũi với người dân. Ông đã để lại một sự nghiệp văn chương phong phú, và giàu giá trị với phong các trữ tình và chính trị sâu sắc đậm đà những bản sắc dân tộc. Tiêu biểu là bài Việt Bắc ta có thể nói, kết tinh của tác phẩm được lắng đọng trong mười câu thơ đã diễn tả nỗi nhớ của người về xuôi với cảnh thiên nhiên và con người nơi Việt Bắc hòa quyện thành bức tranh tứ bình.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng.
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Việt Bắc đã được Tố Hữu sáng tác vào đầu tháng 10 năm 1954 ngay sau khi cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp giành thắng lợi, các cơ quan trung ương Đảng và chính quyền từ Việt Bắc quay về lại thủ đô Hà Nội. Tố Hữu cũng là cán bộ sống gắn bó với Việt Bắc nhiều năm, nay cùng từ biệt chiến khu để về xuôi. Bài thơ như được viết trong buổi chia tay đầy lưu luyến ấy. Và có lẽ đẹp nhất trong nỗi nhớ Việt Bắc chính là những ấn tượng không phai về sự hòa quyện của người dân với thiên nhiên núi rừng cao đẹp mộng mơ.
“Ta về, mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Mở đầu của đoạn thơ là câu hỏi tu từ nhưng hỏi chỉ là cái cớ để thể hiện tâm tư tình cảm, nhấn mạnh với nỗi nhớ da diết của người về Thủ đô. Hai câu đầu là những lời hỏi đáp của ta tức là của người cán bộ kháng chiến đã về xuôi. Ta hỏi mình có nhớ ta những người cách mạng về xuôi hỏi người Việt Bắc đã để bộc lộ tâm trạng của mình là dù có ở những nơi xa xôi, dù có xa cách nhưng lòng ta vẫn gắn bó với chiến khu Việt Bắc. Chữ “ta” , “nhớ” được điệp đi và điệp lại thể hiện lòng thủy chung son sắc. Nỗi nhớ đã hướng về “những hoa cùng người” hướng về thiên nhiên, với núi rừng và con người Việt Bắc. “Hoa” là sự kết tinh của nơi hương sắc, còn “người” là kết tinh với đời sống xã hội. Xét cho đến cùng, “người ta là hoa của đất”. Hoa và người được đặt cạnh nhau lại càng làm tôn lên vẻ đẹp cho nhau, làm sáng lên cả những không gian núi rừng, Việt Bắc trùng điệp.
Những câu thơ tiếp theo đã tái hiện cụ thể, chân thực vẻ đẹp bốn mùa của chiến khu. Cảnh và người đã hòa quyện đan xen vào nhau. Cứ một câu thơ lục tả cảnh thì lại có một câu thơ thật bát tả người. Mỗi mùa có một vẻ đẹp nét đặc trưng tạo thành một bức tranh tứ bình ngập tràn ánh sáng, màu sắc, và đường nét âm thanh vui tươi, ấm áp.
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Ðèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Mở đầu cho một bức tranh tứ bình lại là khung cảnh mùa đông. Chúng ta vẫn luôn thắc mắc là rằng tại sao tác giả không diễn tả mùa theo trật tự quy luật tự nhiên đó là Xuân, Hạ, Thu, Đông lại là mùa Đông trước đã có lẽ vì, thời điểm tác giả sáng tác bài thơ này là vào đầu tháng 10 năm 1954, đó là thời điểm của mùa đông nên khung cảnh mùa đông Việt Bắc cũng tạo cảm hứng để ông viết về mùa đông trước.
Nhớ về nơi mùa đông Việt Bắc, tác giả không nhớ về cái giá buốt, lạnh lẽo, và âm u mà nhớ đến những ngày mùa đông rực rỡ, nắng vàng ấm. Màu xanh bạt ngàn của núi rừng Việt Bắc đã làm nổi bật lên màu đỏ tươi của hoa chuối. Hình ảnh “hoa chuối đỏ tươi” là hình ảnh đặc trưng của rừng núi Việt Bắc vào mùa đông, nó giống như những ngọn đuốc, đã đốm lửa rực rỡ thắp sáng bức tranh mùa đông, xua tan đi cái u tối, lạnh lẽo của núi rừng ở nơi đây. Cả không gian như được sưởi ấm đã tô điểm thêm nét đẹp đặc trưng của mùa đông Việt Bắc. Đằng sau bức tranh mùa đông ấy, đã ẩn hiện lên hình ảnh người nông dân đi lao động leo lên đèo cao để đi làm nương rẫy. Một hình ảnh khỏe khoắn của những người lao động như được tỏa sáng, rực rỡ hơn. Tố Hữu sử dụng nghệ thuật đảo ngữ, đó là ông không dùng “ánh nắng” là một danh từ mà lại dùng “nắng ánh” – một động từ, nhằm làm cho những hình ảnh người lao động đẹp và rực rỡ hơn.
Kết thúc mùa đông lạnh Tố Hữu đưa chúng ta đến với mùa xuân ấm áp vui hơn:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Hình ảnh những bông hoa “mơ nở trắng rừng” là loài hoa đặc trưng của mùa xuân nơi núi rừng Việt Bắc. Hoa nở trắng xóa cả khu rừng có màu không phải màu trắng điểm như trong bài Truyện Kiều của tác giả Nguyễn Du “cành lê trắng điểm một vài bông hoa”. Đó là màu trắng tinh khiết, và tinh khôi khoác lên cho núi rừng Việt Bắc. Và đằng sau mùa xuân tinh khiết, và nhẹ nhàng, thơ mộng ấy. Nhà thơ đã nhớ đến những người đan nón. Hình ảnh “người chuốt từng sợi giang” cũng đã làm nổi bật đức tính cần cù, tỉ mỉ, khéo léo, tài hoa của con người nơi đây. Họ đã làm ra những sợi giang nõn nà và để đan thành những chiếc nón. Đó là vật để che nắng che mưa không thể thiếu của người dân ở nơi đây và đó cũng có thể là thức quà tặng mà tác giả dành cho những người mà họ yêu thương.
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Khi âm thanh của những tiếng ve vang lên, đó là âm thanh đặc trưng của mùa hè. Rừng phách đột ngột đổ vàng và đó là sự chuyển biến đột ngột làm cho người ta có cảm giác khi tiếng ve vang lên thì cùng những lá cây của cây phách từ lá màu xanh chuyển sang màu ả vàng. Cả không gian Việt Bắc cũng như được nhuộm sắc vàng rực rỡ và thời gian mang đến cho ta màu sắc và ẩn sâu trong cái sắc vàng rực rỡ ấy là hình ảnh những cô em hái măng. Ở đó, toát lên được sự cần mẫn, và cần cù siêng năng, chăm chỉ. Măng là thứ rau nuôi sống bộ đội cách mạng. Và hình ảnh cô gái hái măng có một mình cho thấy được sự yên tĩnh và thư thái. Câu thơ đã làm cho ta liên tưởng đến câu thơ:
“Trám bùi để rụng, măng mai để già”
Nếu đặc trưng của mùa đông là hoa mơ, mùa xuân là hoa chuối, và mùa hè là hoa phách vàng. Vậy còn mùa thu thơ mộng là hoa gì, Mùa thu còn không có hoa mà mùa thu cũng có người mà con người là loài hoa đẹp nhất: “Người ta là hoa của đất”.
Khác với nền văn học thời trung đại, một nền văn học mà các nhà văn lấy thiên nhiên làm tiêu chuẩn cho cái đẹp thì đây nền văn học hiện đại lại lấy con người làm tiêu chuẩn cho những cái đẹp. Điều này được thể hiện rất rõ bởi ở câu thơ tả mùa thu của Tố Hữu.
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thuỷ chung”
Nếu câu thơ lục câu thơ tả hình ảnh ánh trăng thì câu thơ bát có là “tiếng hát ân tình”. Cặp đôi “trăng – nhạc” góp phần tạo nên vẻ đẹp lung linh và lãng mạn. Đất nước ta lúc ấy đang trong những thời kì kháng chiến khốc liệt nhưng ở những câu thơ của Tố Hữu ta chỉ thấy được sự bình yên, hòa bình, và êm ả và ân tình thủy chung.
Đoạn thơ đã dạt dào tình thương, tha thiết nỗi nhớ bồi hồi thấm sâu vào cảnh và con người. Kẻ ở người về thì “ta nhớ mình” và “mình nhớ ta”. Tình cảm vô cùng tha thiết, thiêng liêng, và biết bao ân tình thủy chung. Năm tháng đi qua những ân tình thủy chung cách mạng giữa Việt Bắc với những con người về xuôi vẫn luôn thủy chung son sắc, và in đậm trong lòng người.
Tóm lại, với 10 câu thơ trên, Tố Hữu đã hài hòa trong câu lục tả cảnh, vói câu bát tả người. Và sự hài hòa ấy tạo nên một trong những bức tranh tứ bình tuyệt đẹp, đầy màu sắc. Qua đó, Tố Hữu bộc bạch được là tình cảm của mình với thiên nhiên núi rừng Việt Bắc và sự thủy chung luôn son sắc với những con người chất phát và hiền hòa nơi đây. Sự yêu mến và tự hào của tác giả Tố Hữu với Việt Bắc. Và ở mỗi bản thân chúng ta, cũng cần phải biết đến những địa danh của nơi Đất Nước mình, yêu mến và luôn tự hào về vẻ đẹp diệu kỳ của nó. Điều quan trọng hơn hết, là chúng ta cần ghi nhớ công ơn to lớn của chiến sĩ đã hi sinh ra sức chiến đấu dựng xây khiến chúng ta có được một đất nước thật yên bình và xinh đẹp như ngày hôm nay.
4. Phân tích bức tranh tứ bình Việt Bắc của nhà thơ Tố Hữu (mẫu 3)
Nhắc đến núi rừng Việt Bắc là nhắc đến cội nguồn của cách mạng, nhắc đến mảnh đất trung du nghèo khó mà rất nặng nghĩa nặng tình – nơi đã in sâu bao nhiêu kỷ niệm của một thời kỳ cách mạng gian khổ nhưng hào hùng sôi nổi khiến khi chia xa, mà lòng ta sao khỏi xuyến xao bồi hồi.
Và cứ như thế sợi nhớ, sợi thương cứ thế mà đan cài xoắn xuýt như những tiếng gọi “Ta – mình” của đôi lứa từng yêu nhau. Đúng như lời thơ của tác giả Chế Lan Viên từng viết “Khi ta ở đất chỉ là nơi ở/ Khi ta đi đất bỗng hóa tâm hồn”. Vâng Việt Bắc đã hóa tâm hồn đầy chất dào dạt nghĩa yêu thương trong thơ của Tố Hữu với những lời thơ như tiếng một bản nhạc ngân nga, với cảnh với người ăm ắp với những kỉ niệm ân tình không bao giờ quên được.
Ta về mình có nhớ ta
Ta về, ta nhớ những hoa cùng người
Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng
Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang
Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình
Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung
Tố Hữu là một nhà thơ trữ tình chính trị, thơ ông diễn tả những tình cảm cách mạng thật nhẹ nhàng mà cũng thật đậm sâu đậm. Việt Bắc chính là đỉnh cao của thơ Tố Hữu nói riêng, của thơ ca của kháng chiến chống Pháp nói chung. Bài thơ đã được viết vào tháng 10/1954, khi đó Trung ương Đảng và Chính phủ, Bác Hồ và cán bộ kháng chiến đã từ giã “Thủ đô gió ngàn” về với “Thủ đô Hoa vàng nắng gió Ba Đình”. Cả bài thơ đã là một niềm hoài niệm nhớ thương tuôn chảy về những năm tháng ở nơi chiến khu Việt Bắc rất gian khổ nhưng vui tươi và hào hùng. Nhưng có lẽ đã để lại ấn tượng sâu đậm nhất trong bài ca Việt Bắc có lẽ là đoạn thơ về bức tranh tứ bình thật đẹp với bốn mùa xuân – hạ – thu – đông.
Mở đầu của đoạn thơ là hai câu thơ giới thiệu nội dung bao quát cảm xúc chung của cả đoạn thơ:
“Ta về mình có nhớ ta
Ta về ta nhớ những hoa cùng người”
Câu thơ đầu tiên đã sử dụng câu hỏi tu từ “mình có nhớ ta”, câu thơ thứ hai là tự trả lời và điệp từ “ta” lặp lại với bốn lần cùng với âm “a” là âm mở đã khiến câu thơ mang những âm hưởng ngân xa, tha thiết nồng nàn. Và với Tố Hữu, người cán bộ ra đi không chỉ nhớ đến ngày tháng gian khổ “bát cơm nữ sẻa chăn sui đắp cùng”, mà vẫn còn nhớ đến vẻ đẹp đáng yêu của Hoa cùng Người. Ở đây, hoa tượng trưng cho cái vẻ đẹp thiên nhiên Việt Bắc. Còn con người là con người nơi Việt Bắc với tấm áo chàm nghèo khổ đậm đà lòng son. Hoa và Người đã quấn quýt với nhau trong vẻ đẹp hài hòa và đằm thắm để tạo nên cái nét riêng biệt, độc đáo của vùng đất này. Đó chính là điều ấy đã tạo nên cái cấu trúc đặc sắc cho đoạn thơ. Trong bốn cặp lục bát đã còn lại câu sáu dành cho nhớ hoa, nhớ cảnh, cầu tám dành cho nhớ người. Cảnh và Người trong mỗi câu lại có cả những sắc thái đặc điểm riêng thật hấp dẫn.
Nhắc đến mùa đông thì ta thường nhớ đến cái lạnh thấu xương da, cái ảm đạm của những ngày mưa phùn và gió bấc, cái buồn bã của khí trời u uất. Nhưng đến với Việt Bắc trong thơ ca Tố Hữu thì thật lạ mùa đông lại bỗng ấm áp lạ thường:
“Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi
Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng”
Điểm xuyết trên là cái nền màu xanh bát ngát bao la của cánh rừng, là màu hoa chuối đỏ rực tươi đang nở rộ lung linh dưới ánh nắng mặt trời. Từ xa trông tới, bông hoa như đã những bó đuốc thắp sáng rực tạo nên một bức tranh với nhiều đường nét, màu sắc vừa đối lập, vừa hài hòa, và vừa cổ điển vừa hiện đại. Cái màu “đỏ tươi” – gam và màu nóng của bông chuối nổi lên giữa màu xanh bát ngát của núi rừng, và làm cho thiên nhiên Việt Bắc trở nên tươi sáng, nơi ấm áp và như tiềm ẩn một sức sống, xua đi những cái hoang sơ lạnh giá hiu hắt vốn có của núi rừng. Câu thơ đã làm ta liên tưởng đến màu đỏ của hoa lựu trong thơ ca Nguyễn Trãi:
“Thạch lựu hiên còn phun thức đỏ
Hồng liên trì đã tịn mùi hương”
Từ liên tưởng ấy ta đã thấy, mùa đông trong thơ Tố Hữu cũng lan tỏa được hơi ấm của mùa hè chứ không lạnh lẽo hoang sơ bởi màu đỏ của đóa hoa chuối cũng như đang phun trào từ giữa những màu xanh của núi rừng.
Cùng hiện lên với lung linh của hoa chuối ấy là con người của vùng chiến khu lên núi làm nương, nơi phát rẫy sản xuất ra nhiều lúa khoai cung cấp cho kháng chiến “Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng” . Trước thiên nhiên bao la, kia con người dường như càng trở nên kỳ vĩ, hùng tráng hơn nữa. Ở đây nhà thơ không khắc họa gương mặt mà ra chớp lấy một nét thần tình rực sáng nhất. Đó là ánh mặt trời chớp lóe trên lưỡi dao của rừng ở ngang lưng. Ở đây câu thơ cũng vừa mang ngôn ngữ thơ nhưng lại vừa mang những ngôn ngữ của nghệ thuật nhiếp ảnh. Con người như một tụ điểm của vệt ánh sáng. Con người ấy cũng đã xuất hiện lên ở một vị trí, một tư thế đẹp nhất – “đèo cao”. Con người cũng đang chiếm lĩnh đỉnh cao, chiếm lĩnh núi rừng, tự do “Núi rừng đây là của chúng ta/ Trời xanh đây là của chúng ta”. Đấy là cái tư thế làm chủ đầy kiêu hãnh vững chãi: Giữa núi và nắng, và giữa trời cao bao la và rừng xanh mênh mang. Con người ấy cũng đã trở thành linh hồn của bức tranh mùa đông Việt Bắc.
Đông qua, xuân lại tới nhắc đến mùa xuân chúng ta liên tưởng ngay đến sức sống mới của cỏ cây, hoa lá, của trăm loài đang cựa mình đã thức dậy sau mùa đông dài. Mùa xuân Việt bắc cũng như vậy:
“Ngày xuân mơ nở trắng rừng
Nhớ người đan nón chuốt từng sợi giang”
Bao trùm lên trên cảnh vật mùa xuân là màu trắng dịu dàng, trong trẻo, tinh khiết của hoa mơ nở khắp rừng là : “Ngày xuân mơ nở trắng rừng”. “Trắng rừng” được viết theo phép đảo ngữ từ “trắng” được dùng như động từ có tác dụng nhấn mạnh vào màu sắc, và màu trắng dường như lấn át tất cả mọi màu xanh của lá, và làm bừng sáng cả một khu rừng là bởi sắc trắng mơ màng, bâng khuâng, dịu mát của hoa mơ tinh khôi. Động từ “nở” làm đã mở sức sống mùa xuân lan tỏa và tràn trề nhựa sống. Đây không phải là lần đầu tiên tác giả Tố Hữu viết về màu trắng ấy, năm 1941 Việt Bắc đón bác Hồ trong màu sắc hoa mơ:
“Ôi sáng xuân nay xuân bốn mốt
Trắng rừng biên giới nở hoa mơ
Bác về im lặng con chim hót
Thánh thót bờ lau vui ngẩn ngơ”
Mùa xuân sẽ càng trở nên tươi tắn hơn nữa bởi sự xuất hiện của hình ảnh con người với những hoạt động “chuốt từng sợi giang”. Con người đã đẹp tự nhiên trong những công việc hằng ngày. Từ “chuốt” và hình ảnh thơ và đã nói lên được bàn tay của con người lao động: cần mẫn, tỉ mẩn, tài hoa, nhanh nhẹn, chăm chút đó cũng chính là phẩm chất tần tảo con người Việt Bắc.
Mùa hè đến trong những âm thanh rộn rã của tiếng ve, bức tranh Việt Bắc cũng lại sống động hơn bao giờ hết:
“Ve kêu rừng phách đổ vàng
Nhớ cô em gái hái măng một mình”
Thời điểm ve kêu là thời điểm rừng phách đổ vàng. Động từ “đổ” là động từ mạnh, diễn tả sự vàng lên đồng loạt của hàng hoa phách đầu hè. Màu của cây phách đổ vàng cả suối ngàn và dường như làm cho ánh nắng của mùa hè và cả tiếng ve kêu râm ran kia nữa cũng đã trở nên óng vàng ra. Đây là một bức tranh sơn mài được vẽ lên bằng những hoài niệm, nên lung linh ánh sáng, và màu sắc và rộn rã âm thanh. Tố Hữu không chỉ có biệt tài trong việc miêu tả được vẻ đẹp riêng của từng mùa, mà còn có tài trong việc miêu tả dài sự vận động đổi thay của thời gian và cảnh vật. Chỉ trong một câu thơ đó trên mà ta thấy được cả thời gian luân chuyển sống động: tiếng ve kêu báo hiệu cho mùa hè đến và cây phách ngả sang màu vàng rực rỡ. Đây chính là một biểu hiện rất đặc sắc của tính dân tộc.
Hiện lên trong cái thiên nhiên đã óng vàng và rộn rã ấy, là hình ảnh cô gái áo chàm cần mẫn bước đi hái búp măng rừng cung cấp cho bộ đội kháng chiến nơi đó: “Nhớ cô em gái hái măng một mình”. Hái măng một mình mà gợi lên ấn tượng về sự cô đơn, hiu hắt như bóng dáng của người sơn nữ trong thơ xưa; và trái lại rất trữ tình, thơ mộng, gần gũi thân thương luôn tha thiết. Hình ảnh thơ cũng gợi lên được vẻ đẹp chịu khó và chịu thương của cô gái. Đằng sau đó, ẩn chứa biết bao niềm cảm thông, và trân trọng của tác giả.
Thu sang, khung cảnh núi rừng của chiến khu như được tắm trong ánh trăng xanh huyền ảo lung linh dịu mát, huyền ảo:
“Rừng thu trăng rọi hòa bình
Nhớ ai tiếng hát ân tình thủy chung”
Không gian bao la tràn ngập những ánh trăng, đó là ánh trăng của tự do , và của hòa bình rọi sáng niềm nơi vui lên từng núi rừng, từng bản làng Việt Bắc. Ta cũng từng biết đến mùa thu đầy những ánh trăng trong thơ của Bác khi còn ở nơi chiến khu:
“Trăng vào cửa sổ đòi thơ
Việc quân đang bận xin chờ hôm sau
Chuông lầu chợt tỉnh giấc thu
Ấy tin thắng trận liên khu báo về”
Ở đây không có những tiếng chuông báo thắng trận nhưng lại vang lên tiếng hát. Đó là tiếng hát thật trong trẻo của đồng bào dân tộc, là tiếng hát nhắc nhở thủy chung và ân tình. Đây cũng chính là tiếng hát của núi rừng Việt Bắc của núi rừng của tình cảm mười lăm năm gắn bó và thiết tha mặn nồng.
Vâng! Bức tranh mùa thu nơi Việt Bắc đã làm hoàn chỉnh bức tranh tuyệt mỹ của núi rừng và đã khép lại đoạn thơ bằng tiếng hát “ân tình thủy chung” gợi cho những người về và cả người đọc những rung động sâu xa của tình yêu cho quê hương đất nước.
Với những nét chấm phá đơn sơ vô cùng giản dị, vừa cổ điển vừa hiện đại, đoạn thơ trên của tác giả Tố Hữu đã làm nổi bật được bức tranh cảnh và người qua bốn mùa của chiến khu Việt Bắc mộng mơ. Cảnh và người hòa hợp với nhau tô điểm cho nhau, và làm cho bức tranh trở nên gần gũi thân quen, luôn sống động và có hồn hơn. Tất cả đã tan chảy đã thành nỗi nhớ nhung quyến luyến thiết tha trong tâm hồn người của cán bộ về xuôi.