Đò lèn là bài thơ thể hiện tình cảm đẹp đẽ, xúc động nhất của nhà thơ Nguyễn Duy dành cho người bà tần tảo, lam lũ, giàu hi sinh của mình. Bài phân tích bài thơ Đò Lèn mà Butbi chia sẻ dưới đây sẽ giúp các bạn cảm nhận được tình bà cháu thiêng liêng, cao đẹp và những kỷ niệm về tháng ngày thơ ấu hồn nhiên, vô tư bên bà của tác giả.
Tham khảo thêm:
- Tìm hiểu tác giả bài thơ Đò Lèn Nguyễn Duy
- Mở bài Đò Lèn hay nhất
- Soạn văn bài Đò Lèn
- Chi tiết các tác phẩm trọng tâm ngữ văn 12
1. Dàn ý phân tích Đò Lèn
A. Mở bài
– Giới thiệu vài nét về tác giả Nguyễn Duy và tác phẩm – Đò Lèn:
- Nguyễn Duy là nhà thơ tiêu biểu với những vần thơ viết về những vẻ đẹp đời thường, những giá trị khiêm nhường mà bền vững.
- Bài thơ Đò lèn được viết vào năm 1938, nhân dịp Nguyễn Duy trở về quê hương thăm bà ngoại sau bao năm xa cách nhưng bà đã không còn.
B. Thân bài
Luận điểm 1: Hình ảnh người bà tảo tần, lam lũ, vất vả trong kí ức của người cháu.
– Những kỉ niệm tươi đẹp của một chú bé nhà nghèo, vô tư, ham chơi, tinh nghịch trong thời thơ ấu:
- Thích thú với những trò chơi trẻ thơ như: đi bắt chim, trộm nhãn, theo bà đi chợ, đi câu cá.
- Say mê với thế giới thần tiên: chơi đền Cây Thị, xem lễ đền Sòng, ấn tượng với mùi hương của hoa huệ trắng, khói trầm, điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng.
- Gợi nhớ lại những kỉ niệm xưa, thể hiện sự trân trọng thời thơ ấu vô tư hồn nhiên vui vẻ, yêu quý quê hương nguồn cội, thương nhớ người bà kính yêu.
- Ngoài ra nó còn là sự tự trách, ăn năn khi nhìn thấy sự vô tâm của bản thân không biết quan tâm đến bà khi bà còn sống.
– Hình ảnh người bà qua hoài niệm của tác giả:
- Bà đã âm thầm hi sinh, vượt qua mọi cơ cực, sự vất vả khi buôn bán ngược xuôi, chịu mọi hiểm nguy để nuôi dạy người cháu nhỏ mồ côi cha mẹ và nghịch ngợm giữa cảnh chiến tranh khốc liệt.
- Bà lam lũ mò cua xúc tép, gánh chè xanh Ba Trại, thập thững trong những đêm lạnh, bà đi bán trứng ở ga Lèn trong ngày bom Mĩ giội.
⇒ Những hình ảnh rất thực, rất đậm trong hình tượng về người bà của Nguyễn Duy và cũng chính là hình ảnh người bà rất gần gũi, quen thuộc với mỗi gia đình Việt Nam chúng ta.
- Bà là một phần trong tuổi thơ của cháu, gắn bó thân thương biết bao: những ngày níu váy bà đi chợ Bình Lâm,…
- Bà hiền lành, đôn hậu, thánh thiện như là Tiên, là Phật, là Thánh soi sáng lòng từ bi, bác ái.
- Sống trong vòng tay đầy tình yêu thương ấp ủ của bà, đứa cháu mới thấu hiểu được tấm lòng, tâm hồn của bà.
⇒ Hình ảnh người bà hiện lên thật giản dị, người bà lam lũ mà tràn đầy tình yêu thương con cháu, tràn đầy nghị lực, sự hy sinh cao cả, người cháu cũng rất mực yêu quý và trân trọng bà. Bà là hiện thân của đức tính hi sinh, chịu thương chịu khó của người phụ nữ Việt Nam, của những cánh cò lặn lội trong cuộc đời.
Luận điểm 2: Sự thức tỉnh, hối tiếc muộn màng của người cháu
– Tình cảm của nhà thơ – người cháu khi nghĩ về bà ngoại:
- Thấu hiểu nỗi cơ cực, vất vả, sự tần tảo và tình yêu thương của bà.
- Thể hiện tình thương mến, tôn kính, tri ân sâu sắc đối với bà.
- Sự ân hận, hối tiếc, ngậm ngùi, xót đau muộn màng:
“Khi tôi biết thương bà thì đã muộn
Bà chỉ còn một nấm cỏ thôi “
→ Nỗi xúc động trào dâng của người cháu khi đứng trước ngôi mộ bà ngoại:
- Dòng sông xưa – dòng sông mang những kỷ thơ ấu : sông Chu, sông Mã, sông Đò Lèn.
- Câu thơ “Dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi” : nói về cuộc đời bể dâu, về sự đổi thay của quê hương, xứ sở khi hòa bình trở lại.
- Câu “Bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi” : mang nỗi buồn man mác, triết lí về kiếp người có hạn trong dòng chảy vô hạn của thời gian và vũ trụ; nỗi hân hận, hối tiếc muộn màng của người cháu vì năm xưa đã vô tâm, không hiểu nỗi vất vả, cơ cực và không thể chăm sóc bà.
* Nét đặc sắc về nghệ thuật:
– Tác giả đã khéo léo sử dụng thủ pháp đối lập, phép so sánh đối chiếu trong những câu thơ.
– Giọng thơ thành thực, thẳng thắn
– Có sự hòa quyện, nhuần nhuyễn giữa tính cách dân gian và phong vị cổ điển.
– Hình ảnh thơ giản dị, gần gũi với cuộc sống đời thường pha chất hóm hỉnh dân gian.
C. Kết bài
Khái quát lại giá trị nội dung từ đó nêu cảm nhận của bản thân về tác phẩm.
2. Sơ đồ tư duy phân tích Đò Lèn
3. Bài văn mẫu phân tích bài thơ Đò Lèn – Nguyễn Duy hay nhất
Nguyễn Duy – một nhà thơ tiêu biểu có sự đóng góp rất lớn trong nền thơ ca Việt Nam. Ông là một người mồ côi cha mẹ sớm nên cảm xúc của ông khi nhớ về tuổi thơ của mình thật gần gũi và nó gắn bó trong cả quãng đời của ông, và những cảm xúc ấy đã tạo cho ông những nguồn cảm hứng để viết lên bài Đò Lèn.
Đò Lèn được viết nhân dịp một lần ông về thăm lại quê hương, những kỷ niệm về nơi đây vọng lại trong kí ức của tác giả, ông nhớ lại những kỷ niệm xưa bên bếp lửa cùng những kỷ niệm khác khi sống bên người bà của mình. Những kỷ niệm đó có vui, có buồn, chúng đan xen nhau tạo lên những cung bậc cảm xúc dạt dào và thầm kín sâu lắng.
Nguyễn Duy là một người lính thông tin tham gia vào cuộc kháng chiến chống đế quốc Mỹ, nên trong thơ của ông chúng ta cũng bắt gặp nhiều lần những hình tượng về người lính, đặc biệt là trong những tác phẩm viết về đề tài chiến tranh với quê hương đất nước. Ở đó ông không đi tìm những vẻ đẹp hoành tráng, kiêu hùng, mĩ lệ mà thay vào đó ông lại thường chú ý đến những vẻ đẹp giản dị, đơn sơ, đời thường, thấm sâu trong từng ký ức tuổi thơ, đó là nỗi vất vả, cực nhọc trong lao động của người nông dân trong kháng chiến. Và ở Đò Lèn cũng vậy, cả bài thơ như một miền ký ức có vui vẻ, có hồn nhiên nhưng xen kẽ ở đó cũng có những ký ức về một thời chiến tranh tàn phá ác liệt. Tuy nhiên đọc thơ của Nguyễn Duy không phải để buồn mà là để suy ngẫm, để chiêm nghiệm, thế nên giọng thơ được viết lên rất thoải mái, đôi chỗ mặc dù thực tế vô cùng tàn khốc, bi thương nhưng ông cũng dùng cái giọng thơ hóm hỉnh để che lấp đi cái điều tiêu cực ấy, rồi hướng người ta về một thứ tình cảm khác thiêng liêng đó là tình thân. Xuyên suốt Đò Lèn là những hoài niệm của tác giả. Hai khổ thơ đầu là nhũng kỷ niệm về tuổi thơ của tác giả với những năm tháng rong chơi, hồn nhiên rất chân quê mộc mạc.
“Thuở nhỏ tôi ra cống Na câu cá
níu váy bà đi chợ Bình Lâm
bắt chim sẻ ở vành tai tượng Phật
và đôi khi ăn trộm nhãn chùa Trần
Thuở nhỏ tôi lên chơi đền Cây Thị
chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng
mùi huệ trắng quyện khói trầm thơm lắm
điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng“
Ngay từ những câu thơ mở đầu, tác giả đã nói về nỗi nhớ thương trong tâm hồn mình và hình ảnh đó đã tạo lên những cảm xúc, những nỗi nhớ da diết, dâng trào và đọng lại trong trái tim của ông một cách sâu sắc. Trong những câu thơ đầu tiên, hình ảnh người cháu hiện lên rất rõ, đó là một đứa trẻ tinh nghịch, thích thú với những trò chơi dân gian phổ biến, lúc thì đi bắt cá lúc bắt chim sẻ, những hình ảnh đó hiện lên thật sinh động và tràn đầy niềm vui. Qua những hồi ức trên ta thấy, nhà thơ đã có một tuổi thơ rất đẹp, rất đúng nghĩa. Các địa danh cụ thể như cống Na, chợ Bình Lâm, chùa Trần, đền Cây Thị, đền Sòng được nhắc đến thật gần gũi và gắn bó chặt chẽ với tuổi thơ của tác giả, mang đậm đà nét văn hóa làng, xã của Việt Nam – cái mà đã làm lên Đất Nước theo những câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm. Thêm vào đó, cái chất thôn quê, dân dã, bình dị, quen thuộc còn hiện lên thông qua những chi tiết về phong tục tập quán đặc trưng của người Việt xưa trong cảnh “xem lễ đền Sòng” và thấm đượm hồn quê với “với điệu hát văn lảo đảo bóng cô đồng“, đâu đó còn vấn vương cả mùi nhang trầm linh thiêng, cùng với hương thơm của huệ trắng tinh khiết cao nhã. Hình ảnh Cùng với “chân đất đi đêm xem lễ đền Sòng” nói lên cái cảnh nghèo khó, bình dị, đơn sơ nhưng qau đó cũng phản ánh tâm hồn trong sáng, thuần phác, hồn nhiên của một cậu bé chân quê, đại diện cho cả một làng quê xưa. Bấy nhiêu đó thôi cũng đủ khiến cho người ta hoài niệm, tự hào và thêm yêu thương, trân trọng những nét đẹp trong văn hóa truyền thống của dân tộc ta. Tuổi thơ Nguyễn Duy tuy nghèo khó, vất vả, thiếu thốn đủ thứ nhưng ông vẫn được rong chơi, nghịch ngợm trải nghiệm như thế là nhờ có sự gánh vác, trông nom của người bà. Trong tâm trí của Nguyễn Duy người bà ngoại chính là hình ảnh gần gũi, thân thuộc nhất, để mỗi khi nhắc về ông lại mang những cảm xúc ngổn ngang, là nỗi ân hận, xót xa, là nỗi niềm xót xa bà mình sao khổ cực quá.
“Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế
bà mò cua xúc tép ở đồng Quan
bà đi gánh chè xanh Ba Trại
Quán Cháo, Đồng Giao thập thững những đêm hàn“
Tác giả phải nhẹ thốt lên với giọng đầy hối hận và xót xa “Tôi đâu biết bà tôi cơ cực thế”. Nhưng điều ấy chẳng thể trách được, bởi với một đứa trẻ đang tuổi ăn, tuổi lớn, sự ngây thơ, hồn nhiên, ngộ nghĩnh và cái tính nghịch ngợm, ham chơi của cậu bé đã không thể suy nghĩ được nhiều đến thế. Chỉ đến khi đã lớn, trưởng thành và đã đi chinh chiến xã xôi, cậu bé ấy mới như bừng tỉnh, giật mình nhớ về hình dáng người bà năm xưa đã tảo tần nuôi, vất vả mình khôn lớn. Ký ức như một cuốn băng cũ chậm rãi đưa tác giả trở về với những hình ảnh ố vàng do vết bụi của thời gian đó là những ngày “bà mò cua xúc tép ở đồng Quan“, là những hôm “bà đi gánh chè ở Ba Trại”, hay những đêm lạnh gót chân bà “thập thững “. Hình tượng người bà này cũng chính là đại diện cho đức tính hi sinh, chịu thương chịu khó, sẵn sàng dang đôi vai gầy gồng gánh hết khổ cực, một lòng lòng hi sinh vì con cháu của người phụ nữ Việt Nam xưa. Có lẽ hình ảnh người bà cùng những cảm xúc của Nguyễn Duy trong đoạn thơ này cũng giống với Bằng Việt thể hiện trong bài thơ Bếp lửa qua câu “Nhóm bếp lửa nghĩ thương bà khó nhọc”. Đó là tấm lòng yêu thương, hết mực kính trọng và nỗi xót xa thương cho những nỗi khó nhọc mà bà ngoại mình đã phải trải qua trong suốt cả cuộc đời, để cho đứa cháu có được một tuổi thơ êm đềm hạnh phúc, vô lo vô nghĩ như bao đứa trẻ khác. Tình cảm của bà ngoại dành cho ông qua đôi mắt của tác giả thật ấm áp, dịu dàng và thanh khiết vô cùng.
“Tôi trong suốt giữa hai bờ hư – thực
giữa bà tôi và tiên phật, thánh thần
cái năm đói củ dong riềng luộc sượng
cứ nghe thơm mùi huệ trắng hương trầm“
Nhà thơ đứng giữa “bờ hư – thực” để nghĩ về bà, dùng tấm lòng trong suốt, sự tinh tế trong tâm hồn để cảm nhận về bà và tình cảm của bà, bà luôn dành cho cháu thứ tình cảm nhân từ, độ lượng, đầy yêu thương. Trong những ngày tháng đói mòn, đói mỏi bà đã nhường cháu “củ dong riềng luộc sượng”, cháu ăn vào mà như ăn cả tình thương ấm áp, dịu dàng của bà. Bên cạnh đó lại thấy phảng phất “mùi huệ trắng hương trầm” thiêng liêng, quẩn quanh tràn đầy trong ký ức. Cái mùi thơm của huệ trắng cùng với mùi thơm của nhang trầm ấy đã trở đi trở lại hai lần trong bài thơ, nó như ôm lấy một tuổi thơ nghèo khó nhưng chan chứa tình cảm của Nguyễn Duy, tựa như tình thương, ánh mắt hiền từ, nhân hậu, độ lượng như tiên như phật của bà đang dõi theo bước chân cháu cả cuộc đời, khiến cháu cứ mãi nhớ thương.
“Bom Mỹ dội, nhà bà tôi bay mất
đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền
thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết
bà tôi đi bán trứng ở ga Lèn“
Rồi chiến tranh quét ngang qua làng xóm ấy, nhà thơ đã khéo léo dùng một cái chất giọng hóm hỉnh để diễn tả cái cảnh khốc liệt, hoang tàn ấy, hòng làm cho câu thơ nhẹ nhàng hơn, tha thiết hơn nhưng vẫn khắc sâu trong lòng người đọc với những hình ảnh ác liệt mà bom đạn đã để lại. “nhà bà tôi bay mất” / “đền Sòng bay, bay tuốt cả chùa chiền”, những điều tàn khốc ấy qua giọng thơ của tác giả lại cảm thấy rất nhẹ nhàng, bình thản và đến cười ra nước mắt với câu thơ rất hồn nhiên, thơ ngây “thánh với Phật rủ nhau đi đâu hết“. Tất cả đã đi hết chẳng còn lại gì nhưng vẫn còn bà ngoại, bà vẫn ở đó, bà trụ vững hơn cả nhà cửa, chùa chiền, kiêng cường hơn cả thánh, cả Phật, bà vẫn ở lại đây để mưu sinh và vẫn “đi bán trứng ở ga Lèn”, để nuôi đứa cháu trai bé bỏng còn thơ dại. Thực sự, chỉ có thứ tình cảm ruột thịt, thứ tình cảm thiêng liêng máu mủ, tấm lòng hi sinh, sức chịu đựng của người bà, của người phụ nữ Việt Nam mới mạnh mẽ và kiên cường đến vậy, dù cho là mưa bom bão đạn, có là mưa sa bão táp, hay gian khó cuộc đời có bao nhiêu đi chăng nữa cũng chẳng bao giờ đánh sập được.
Một thời ký ức đã qua, khi cháu đã lớn lên, trưởng thành, đã bước ra chiến trường ngàn dặm xa xôi, cháu mới hiểu và biết thương bóng hình bà khó nhọc, kiên cường, nhưng khi cháu trở về thì đợi cháu chỉ còn lại nấm mộ đã xanh cỏ từ lâu. Bà dù có mạnh mẽ, có kiên cường như thế nhưng cũng không chống đỡ nổi bước đi của thời gian. Khi cháu đã lớn khôn, đã biết nghĩ suy, đã hiểu được nỗi vất vả của bà thì cũng không còn sự bảo bọc chở che của bà nữa. Nguyễn Duy trở về quê hương, trở về với người bà kính yêu, với những xóm làng quen thuộc thời thơ ấu, mọi thứ dường như cũng đã đổi thay ít nhiều và bà cũng chẳng còn ở đó nữa.
“Tôi đi lính, lâu không về quê ngoại
dòng sông xưa vẫn bên lở bên bồi
khi tôi biết thương bà đã muộn
bà chỉ còn là một nấm cỏ thôi“
Nỗi xúc động dâng trào nhìn dòng sông xanh biếc đại diện cho quê hương, cho làng xóm. Chiến tranh đã qua đi ít lâu, quê hương trở lại vẻ thanh bình vốn có, cùng với niềm tiếc nuối, nỗi ân hận muộn màng vì không biết trân trọng, yêu thương khi bà còn ở bên cạnh mà chỉ biết rong chơ, đùa nghịch. Giờ đây bà đã không còn ở đây mà đã về với cõi thần tiên, dưới gối Phật tổ, chỉ để lại một nấm cỏ xanh khiến cho tác giả không khỏi ngậm ngùi, xót thương, cùng nỗi hối hận không thôi, hối hận về một tuổi thơ đã quá vô tâm không để ý đến mắt bà đã mờ, lưng bà đã mỏi, chân bà đã run, đôi tay bà cũng trở nên thô sần theo năm tháng. Khổ thơ cuối này, dường như Nguyễn Duy muốn thức tỉnh tâm hồn người đọc, khiến mỗi chúng ta phải giật mình ngẫm lại bản thân xem liệu mình đã thực sự biết yêu thương, biết trân trọng người thân và những người mình yêu thương đang hiện diện bên cạnh chúng ta chưa. Và điều đó mang đến một triết lý nhân sinh vô cùng sâu sắc, nhắn nhủ người đời rằng: “Hãy học cách trân trọng, biết ơn những gì bạn đang có, trước khi để thời gian dạy cho bạn biết phải trân trọng những gì bạn đã từng có“.
Trên đây là bài phân tích bài thơ Đò lèn chi tiết và đầy đủ nhất mà Butbi đã tìm hiểu được, mong rằng các bạn có thể cảm nhận được những cảm xúc cũng như những triết lý nhân sinh sâu sắc mà tác giả Nguyễn Duy muốn nhắn nhủ.