Soạn bài Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo | Ngữ văn 12

0

Soạn bài Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo – SGK – ngữ văn 12 – tập 2.Bài soạn dưới đây sẽ trả lời các câu hỏi phần học bài và luyện tập trong SGK Ngữ văn 12 tập 2 một cách rõ ràng và dễ dàng nhất.Từ đó còn giúp các bạn nắm vững được kiến thức bài học.

Soạn bài Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo | Ngữ văn 12
Soạn bài Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo | Ngữ văn 12

Tham khảo thêm:

1. Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo | Xác định giọng điệu phù hợp

Trả lời câu hỏi trang 155  sgk  ngữ văn 12  tập 2:

a) Đối tượng nghị luận và nội dung cụ thể của hai đoạn trích tuy khác nhau, nhưng ta có thể nhận thấy ở cả 2 đoạn trích này đều có chung một giọng điệu. Đó chính là một giọng văn nghiêm túc, và vô cùng trang trọng. Ngoài điểm chung này thì mỗi bài lại có những điểm nổi bật với cảm hứng riêng như sau:

  • Đoạn thứ nhất đó chính là cảm hứng buộc tội, kết tội kẻ thù cho nên tác giả đã sử dụng một giọng văn vô cùng đanh thép và hào hùng.
  • Đoạn thứ hai là tiếng nói tri ân của nhà thơ Hàn Mặc Tử cho nên giọng điệu ở đây là giọng trầm lắng, tha thiết và trìu mến.

b) Cơ sở để tạo nên những sự khác biệt như đã nói ở trên chính là xuất phát từ nội dung chính của đoạn trích đó. Tùy thuộc vào nội dung nghị luận và đối tượng nghị luận là gì mà tác giả sử dụng những giọng điệu khác nhau để cho bài văn nghị luận của mình thêm sự thuyết phục.

c) Đoạn văn đầu tiên thì sử dụng nhiều những từ ngữ thuộc lớp từ xã hội, chính trị vì nội dung vấn đề nghị luận cũng là về chính trị – xã hội nên để bài viết thuyết phục và đi đúng vào chủ đề của tác phẩm thì không thể không sử dụng lớp từ này. Ngoài ra để lời văn thêm cuốn hút người đọc hơn, Hồ Chí Minh còn sử dụng kết hợp nhiều những câu văn có cấu trúc song hành, liệt kê và nhiều phép lặp cú pháp. Điều này khiến cho lời văn trở nên như những lời buộc tội liên tiếp mà quân thù sẽ không thể nào tránh được.

Trả lời câu hỏi sgk trang 156 ngữ văn 12 tập 2:

a) Giọng điệu của lời văn nghị luận ở đoạn trích trên:

– Đoạn văn thứ nhất chính là lời kêu gọi toàn quốc đứng lên bảo vệ nền độc lập non trẻ của dân tộc vì thế Hồ Chí Minh đã sử dụng giọng điệu tha thiết và hùng hồn đầy mạnh mẽ, như những lời thúc giục vậy. Để tạo nên được giọng điệu này, tác giả đã chú ý vào từng chi tiết nhỏ như: ngôn ngữ, câu từ và cách sử dụng các biện pháp nghệ thuật.

– Giọng điệu của đoạn văn thứ hai tha thiết trầm bổng như những câu thơ trong văn xuôi. Giọng văn như là những lời phân trần về thơ Xuân Diệu, phân trần về nội dung thơ của ông, để từ đó đi cắt nghĩa cho nguồn gốc của những nội dung ấy.

b) Cơ sở để tạo nên những sự khác biệt trong giọng điệu ở 2 đoạn trích trên là:

– Vì là lời kêu gọi toàn quốc đứng lên kháng chiến do đó ở trong đoạn văn ngắn này, Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều những câu văn mang tính chất hô gọi, cầu khiến. Ví dụ như: “Hỡi đồng bào toàn quốc”, “hỡi đồng bào” “chúng ta phải đứng lên” “chúng ta thà…chứ nhất định không…” Tác giả đã sử dụng những từ ngữ để gọi tập thể như chúng ta, đồng bào, bởi vì bài viết này hướng đến tất cả mọi người chứ không phải một vài đối tượng riêng lẻ. Hồ Chí Minh cũng sử dụng phép lặp cú pháp khiến những lời kêu gọi cứ trở đi trở lại và khắc sâu thêm vào tâm trí của người đọc.

– Đoạn thứ hai, để thể hiện những thứ tình cảm dạt dào, tha thiết trìu mến thì tác giả đã sử dụng những tính từ chỉ trạng thái và sử dụng với mức độ ở tần suất dày đặc như: dạt dào, vội vàng, cuống quýt, say đắm, lặng lẽ, bi đát,… Đây đều là những tính từ hết sức tiêu biểu cho phong cách của đối tượng mà bài phân tích đang hướng tới. Để diễn tả được những dòng cảm xúc trào dâng dào dạt thì đoạn trích cũng được tạo nên từ những câu văn dài, nhiều tầng bậc, nhiều phép liệt kê,…

3. Những điểm quan trọng cần phải lưu ý đối với giọng điệu trong văn nghị luận:

– Về cơ bản đó phải là giọng trang trọng và nghiêm túc.

– Tuy nhiên, tùy vào từng vấn đề cần nghị luận mà giọng văn có sự thay đổi, kết hợp sao cho phù hợp và đạt được hiệu quả nghị luận cao nhất.

2. Diễn đạt trong văn nghị luận tiếp theo – Luyện tập

Trả lời câu 1 (trang 158 sgk Văn 12 Tập 1):

1. Đây là bài văn nghị luận về một sự kiện lịch sử có thật do đó Hồ Chí Minh đã sử dụng nhiều những từ ngữ mang tính chất lịch sử – xã hội, từ ngữ được sử dụng vô cùng chuẩn xác phù hợp với một văn kiện lịch sử vô cùng quan trọng của dân tộc ta: Đó chính là bản tuyên ngôn độc lập hào hùng, hùng tráng. Ngoài ra thì tác giả cũng sử dụng những câu văn với những giọng điệu vô cùng đanh thép, dứt khoát và đầy mạnh mẽ để thể hiện rõ ràng cái quan điểm của mình. Đó cũng là những sự thật không thể chối cãi được do đó giọng văn ấy là hoàn toàn phù hợp.

2. Đoạn văn này lại nghị luận về một tác giả văn học, do đó bên cạnh cái giọng trang trọng nghiêm túc thường thấy ở văn nghị luận thì nó còn có sự kết hợp với những giọng trữ tình vô cùng tha thiết. Tác giả đã sử dụng nhiều từ ngữ tài hoa đúng chất của Nguyễn Tuân, nó khiến cho bài nghị luận có một giọng điệu tài hoa riêng và không thể lẫn vào đâu được.

3. Đoạn 3 là nghị luận về hai nhân vật trong cùng một tác phẩm văn học, nó khiến cho bài nghị luận mang những chất trữ tình vô cùng rõ nét. Ngoài ra thì ở đoạn trích này còn sử dụng lối viết so sánh khiến cho tính chất của 2 đối tượng được nhắc đến càng rõ nét hơn.

Trả lời câu 2 (trang 158 sgk Văn 12 Tập 1):

Lựa chọn viết dàn ý cho đề:

*Mở bài: dẫn dắt giới thiệu vấn đề cần nghị luận.

*Thân bài:

– Việc lựa chọn nghề nghiệp của thế hệ thanh niên hiện nay: Chủ yếu đến từ những tác động của các yếu tố khách quan bên ngoài. Ví dụ như: nghe theo sự định hướng của cha mẹ hay thầy cô; lựa chọn những ngành nghề hot, kiếm được nhiều tiền,…

– Ưu điểm của sự lựa chọn này:

  • Những người trẻ sẽ không phải suy nghĩ, được nhàn nhã và được thảnh thơi (trong một thời gian ngắn), không phải đau đầu việc lựa chọn đâu mới là ngành nghề phù hợp nhất với mình.
  • Có những mặt đúng đắn và tích cực nhất định đối với những người không có chính kiến riêng, không biết mình yêu thích điều gì.

– Những mặt tiêu cực của việc lựa chọn nghề nghiệp như trên:

  • Không được làm ngành nghề mà mình yêu thích. Cuộc sống sẽ nhàm chán, tẻ nhạt và không thể gắn bó lâu dài với công việc được.

– Ý kiến cá nhân: đây là cách lựa chọn rất thụ động. Cách đúng đắn nhất vẫn là phải xuất phát từ những sở thích, niềm mong muốn của cá nhân. Phải xác định được mình muốn làm gì, mình có thể làm gì và trong tương lai gần, xã hội sẽ có những nhu cầu đối với ngành nghề gì. Cân bằng được những câu hỏi trên, ta sẽ có được một việc làm phù hợp và đúng đắn cho bản thân.

– Dẫn chứng: Việc lựa chọn nghề nghiệp theo những định hướng của bố mẹ có thể phù hợp với những người mà có bố mẹ có thể sắp xếp được công việc cho họ, cộng với yêu cầu bản thân họ không có chính kiến hay sở thích gì cả. Còn số đông, những người mà không dám làm theo ý kiến của mình, không dám sống hết mình với những ước mơ, những hoài bão của mình thì sẽ rất khó có thể thành công. Ngược lại, những người dám biến đam mê bản thân thành hiện thực thì thường sẽ đạt được thành công trong cuộc sống. Ví dụ, Bill Gate từng bỏ trường Ha-vớt, không nghe theo những định hướng của cha mẹ mà tự đuổi theo đam mê với máy tính và phần mềm, đến giờ sự thành công của ông chắc ít người là không biết tới.

*Kết bài: khẳng định lại vấn đề đã nghị luận phía trên.

Ngoài ra, chúng tôi đã tổng hợp một số tài liệu, văn mẫu, đề bài tập học tốt môn Văn THPT, các bạn có thể tải về miễn phí TẠI ĐÂY. Chúc các bạn học tốt!