Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt – Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

0

Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt: Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ SGK ngữ văn 12 tập 2 hay nhất. Bài soạn dưới đây sẽ giúp các bạn nắm được một cách sơ lược những đặc điểm cơ bản của hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ. Ngoài ra bài soạn còn giúp các bạn trả lời các câu hỏi trong sgk giúp các bạn có thể dễ dàng chuẩn bị bài trước khi đến lớp.

Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt - Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ
Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt – Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ

Tham khảo thêm:

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

I. Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt – Những nội dung cơ bản cần nhớ

1, Giao tiếp chính là một phương thức hoạt động trao đổi thông tin của con người và được tiến hành chủ yếu bằng phương tiện ngôn ngữ, nhằm để thực hiện những mục đích về nhận thức, tình cảm và hành động. Đó là một hoạt động không thể thiếu của con người và xã hội loài người, nhờ đó mà con người được trưởng thành, xã hội được hình thành và phát triển.

Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ bao gồm hai quá trình đó là: quá trình tạo lập văn bản là do người nói hay người viết thực hiện và quá trình lĩnh hội văn bản là do người nghe hay người đọc thực hiện. Hai quá trình này có thể diễn ra đồng thời tại cùng một địa điểm (trong hội thoại), cũng có thể ở những  thời điểm và khoảng không gian cách biệt (qua văn bản viết).

2, Trong hoạt động giao tiếp, ngôn ngữ được sử dụng ở hai dạng đó là nói và viết. Ở hai dạng này có sự khác biệt về điều kiện tạo lập và lĩnh hội văn bản, về những đường kênh giao tiếp, về những loại tín hiệu (âm thanh hay chữ viết), về các phương tiện phụ trợ (như: ngữ điệu, nét mặt, cử chỉ, điệu bộ hay dấu câu, các kí hiệu văn tự, mô hình, bảng biểu,…), về cách dùng từ, đặt câu và cách tổ chức văn bản,…

3, Hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ luôn luôn được diễn ra trong một ngữ cảnh nhất định. Ngữ cảnh là bối cảnh ngôn ngữ, được làm cơ sở cho việc sử dụng ngôn ngữ và tạo lập văn bản, đồng thời nó làm căn cứ để lĩnh hội thấu đáo văn bản. Ngữ cảnh bao gồm các nhân tố là: nhân vật giao tiếp, bối cảnh rộng (bối cảnh văn hoá), bối cảnh hẹp (bối cảnh trong tình huống), hiện thực được đề cập đến và văn cảnh.

4, Trong ngữ cảnh, nhân vật giao tiếp là một nhân tố rất quan trọng. Các nhân vật giao tiếp đều phải có cả năng lực tạo lập và cả năng lực lĩnh hội văn bản. Trong giao tiếp ở dạng nói, họ thường đổi vai cho nhau hay luân phiên những lượt lời. Các nhân vật giao tiếp có những đặc điểm về các phương diện như: vị thế xã hội, quan hệ thân sơ, lứa tuổi, giới tính, nghề nghiệp, tầng lớp xã hội, vốn sống, văn hoá,… Tất cả những đặc điểm đó luôn chi phối nội dung và cách thức giao tiếp bằng ngôn ngữ. Hơn thế, mỗi nhân vật giao tiếp thì thường xuất phát từ những điều kiện của ngữ cảnh mà có thể lựa chọn cho mình một chiến lược giao tiếp tối ưu nhằm đạt được mục đích và hiệu quả giao tiếp.

5, Khi giao tiếp, các nhân vật giao tiếp thường sử dụng ngôn ngữ chung của xã hội để tạo ra lời nói tạo ra những sản phẩm cụ thể của cá nhân. Trong hoạt động đó, các nhân vật giao tiếp vừa sử dụng những yếu tố của hệ thống ngôn ngữ chung và tuân thủ những quy tắc, những chuẩn mực chung và đồng thời biểu lộ những nét riêng trong năng lực ngôn ngữ của cá nhân. Hơn nữa, mỗi cá nhân lại có thể và cần phải vận dụng linh hoạt và sáng tạo các phương tiện ngôn ngữ để có thể tăng cường khả năng biểu đạt và hiệu quả giao tiếp bằng ngôn ngữ, góp phần đổi mới ngôn ngữ và phát triển ngôn ngữ.

6, Trong hoạt động giao tiếp, mỗi câu thường có hai thành phần nghĩa đó là nghĩa sự việc và nghĩa tình thái. Nghĩa của sự việc ứng với sự việc mà câu đề cập đến. Nghĩa tình thái thường thể hiện ở thái độ, tình cảm, sự nhìn nhận, đánh giá của người nói đối với sự việc, hoặc đối với người nghe.

7, Trong hoạt động giao tiếp, các nhân vật giao tiếp cần có ý thức, thói quen và những kỹ năng để giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt. Muốn thế, mỗi người cần phải nắm vững các chuẩn mực ngôn ngữ, sử dụng ngôn ngữ đúng theo những chuẩn mực, đồng thời có thể vận dụng linh hoạt và sáng tạo ngôn ngữ theo những quy tắc chung và khi cần thiết có thể tiếp nhận những yếu tố tích cực của các ngôn ngữ khác, tuy cần phải chống lạm dụng tiếng nước ngoài. Mặt khác, để có thể giữ gìn sự trong sáng của tiếng Việt, mỗi nhân vật giao tiếp cần phải đề cao phẩm chất văn hóa, lịch sự trong giao tiếp ngôn ngữ, tránh những cách biểu hiện thô tục làm vẩn đục ngôn ngữ.

II. Soạn bài Tổng kết phần tiếng việt – Luyện tập

Đọc đoạn trích trong SGK (trang 181) và thực hiện các yêu cầu nêu ở dưới:

1, Hãy phân tích sự đổi vai và luân phiên lượt lời của hoạt động giao tiếp trong đoạn trích. Những đặc điểm của hoạt động giao tiếp trong dạng ngôn ngữ nói được thể hiện qua những chi tiết nào ở trong đoạn trích (chú ý lời kể chuyện của tác giả và lời của các nhân vật).

*Trả lời: 

– Sự đổi vai và luân phiên lượt lời của hoạt động giao tiếp diễn ra giữa hai nhân vật lão Hạc và ông giáo được thể hiện như sau:

  • Lão Hạc: Cậu Vàng đi đời rồi, ông giáo ạ!
  • Ông giáo: Cụ bán rồi?
  • Lão Hạc: Bán rồi! Họ vừa bắt xong.
  • Ông giáo: Thế nó cho bắt à?
  • Lão Hạc: Khốn nạn… lừa nó!
  • Ông giáo: Cụ tứ tưởng… kiếp khác.
  • Lão Hạc: Ông giáo nói phải!… chẳng hạn!
  • Ông giáo: Kiếp ai…
  • Lão Hạc: Thế thì…

* Những đặc điểm của hoạt động giao tiếp ở dạng ngôn ngữ nói được thể hiện qua những chi tiết sau đây:

– Ngữ cảnh: ở nhà ông giáo, lão Hạc sang nhà ông giáo để kể lại sự việc cho ông giáo nghe.

– Nhân vật giao tiếp: nhân vật lão Hạc và ông giáo luân phiên đổi lượt lời cho nhau, lão Hạc chính là người bắt đầu và kết thúc hoạt động giao tiếp.

– Ngữ điệu rất đa dạng: xót xa, đau đớn, than thở…

– Nhân vật giao tiếp có sử dụng các phương tiện hỗ trợ như: nét mặt (cười như mếu), những cử chỉ (mặt lão đột nhiên co rúm lại, cái đầu ngoẹo về một bên, cái miệng móm mém…).

– Ngôn ngữ: sử dụng rất nhiều khẩu ngữ (đi đời rồi, à, hu hu…)

2, Các nhân vật giao tiếp có vị thế xã hội, quan hệ thân sơ và có những đặc điểm gì riêng biệt? Hãy phân tích sự chi phối của những điều đó đến nội dung và cách thức nói trong lượt lời nói đầu tiên của nhân vật Lão Hạc.

*Trả lời: 

– Lão Hạc:là một người nông dân nghèo khổ, vợ mất sớm, đứa con trai thì bỏ đi đồn điền cao su, chỉ còn con chó Vàng bầu bạn.

– Ông giáo: là một trí thức nghèo, sống cùng vợ và các con.

– Mối quan hệ thân sơ: cả hai là hàng xóm của nhau, có chuyện gì thì lão Hạc cũng tâm sự với ông giáo.

– Sự chi phối của những yếu tố trên đến nội dung và cách thức nói trong lượt lời nói đầu tiên của nhân vật Lão Hạc:

  • Nội dung của lời thoại: Lão Hạc sang nhà ông Giáo để thông báo với ông giáo về việc bán “Cậu Vàng”.
  • Cách thức nói của lão Hạc: nói trực tiếp đến sự việc.
  • Sắc thái lời nói: đau đớn xót xa khi thông báo việc bán cậu Vàng và thái độ kính trọng ông giáo.

3, Hãy phân tích nghĩa của sự việc và nghĩa tình thái trong câu: “Bây giờ cu cậu mới biết là cu cậu chết!”.

*Trả lời: 

– Nghĩa sự việc: thông báo sự việc cậu Vàng biết mình đã bị lão Hạc lừa, nó sắp phải chết.

– Nghĩa tình thái: Lão Hạc rất yêu quý con chó Vàng (gọi nó là cu cậu), đau đớn ,xót xa và dằn vặt trước sự lừa dối của bản thân đối với một con chó.

4, Trong đoạn trích trên có hoạt động giao tiếp ở dạng nói giữa hai nhân vật đồng thời khi người đọc đọc đoạn trích lại có một hoạt động giao tiếp nữa là hoạt động giao tiếp giữa họ và nhà văn Nam Cao. Hãy chỉ ra những sự khác biệt giữa hai hoạt động giao tiếp đó.

*Trả lời:

– Hoạt động giao tiếp ở dạng nói giữa hai nhân vật lão Hạc và ông Giáo là sự luân phiên đối vai lượt lời và có sự hỗ trợ bởi ngữ điệu, cử chỉ, ánh mắt…

– Hoạt động giao tiếp giữa nhà văn Nam Cao và các bạn đọc: hoạt động giao tiếp gián tiếp (ở dạng viết). Nhà văn đã tạo lập văn bản ở thời điểm và không gian cách biệt với người đọc. Vì thế, có những điều nhà văn muốn thông báo gửi gắm không được người đọc lĩnh hội hết. Ngược lại, có những điều mà người đọc lĩnh hội nằm ngoài ý định tạo lập của nhà văn.