Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên

0

Chế Lan Viên – một nhà thơ lớn của nền văn học dân tộc, mặc dù đã từ biệt trần thế từ rất lâu thế nhưng thơ ca của ông vẫn luôn sống mãi trong lòng bạn đọc, bởi những tác phẩm nghệ thuật mà ông để lại có giá trị muôn đời. Hãy cùng Butbi tìm hiểu về cuộc đời và sự nghiệp văn học của nhà thơ Chế Lan Viên trong bài viết dưới đây nhé!

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên
Tiểu sử cuộc đời và sự nghiệp văn học của Chế Lan Viên

Tham khảo thêm:

1. Tiểu sử cuộc đời của Chế Lan Viên

Chế Lan Viên tên khai sinh là Phan Ngọc Hoan, sinh ngày 20 /10 /1920 (tức ngày 9/9 âm lịch – năm Canh Thân), sinh ra tại xã Cam An, huyện Cam Lộ, tỉnh Quảng Trị.

Được sinh ra ở Quảng Trị, nhưng ông lớn lên và đi học ở Quy Nhơn, đỗ bằng Thành chung (tương đương với bằng THCS hay cấp II hiện nay) thì thôi học, đi dạy tại một trường tư để kiếm sống. Quy Nhơn và Bình Định có thể coi là quê hương thứ hai của Chế Lan Viên, bởi nơi đây đã để lại những dấu ấn sâu sắc trong tâm hồn, những kỷ niệm khó quên của nhà thơ.

Ông đã bắt đầu làm thơ từ năm 12, 13 tuổi. Năm 17 tuổi, ông lấy bút danh là Chế Lan Viên và xuất bản tập thơ đầu tay với nhan đề “Điêu tàn”, có lời tựa đồng thời cũng là lời tuyên ngôn trong sáng tạo nghệ thuật của “Trường Thơ Loạn”. Từ đây, cái tên Chế Lan Viên trở lên nổi tiếng trên khắp diễn đàn thơ ca Việt Nam. Ông cùng với Yến Lan, Hàn Mặc Tử, Quách Tấn được người trong cùng thời gọi là “Bàn thành tứ hữu” của Bình Định.

Năm 1939, ông ra ngoài Hà Nội và học tập tại đây. Sau đó Chế Lan Viên vào Sài Gòn làm báo rồi lại trở ra Thanh Hóa dạy học. Năm 1942, ông đã sáng tác và cho ra đời tập văn “Vàng sao”, đây là tập thơ triết luận về đời với màu sắc siêu hình, huyền bí.

Khi cách mạng tháng Tám nổ ra, ông đã đăng ký tham gia phong trào Việt Minh tại Quy Nhơn, rồi ra Huế tham gia vào Đoàn xây dựng cùng với Lưu Trọng Lư, Hoài Thanh, Đào Duy Anh. Trong thời kỳ này, Chế Lan Viên đã viết bài và làm biên tập cho các báo như Quyết thắng, Cứu quốc, Kháng chiến. Phong cách thơ của ông trong giai đoạn này cũng có sự thay đổi, chuyển dần về trường phái hiện thực. Tháng 7 năm 1949, trong chiến dịch Tà Cơn – đường 9  ở Quảng Trị, Chế Lan Viên đã chính thức gia nhập Đảng Cộng sản Đông Dương.

Năm 1954, Chế Lan Viên tập kết ra Bắc và làm biên tập viên cho báo Văn học. Từ năm 1956 tới năm 1958, ông công tác ở phòng văn nghệ, Ban tuyên huấn trung ương và ông trở lại làm biên tập tuần báo Văn học (sau đổi tên là báo Văn nghệ) vào cuối năm 1958. Từ năm 1963 ông trở thành ủy viên thường vụ Hội nhà văn Việt Nam và ủy viên ban thư ký Hội nhà văn Việt Nam. Ông cũng là một trong những đại biểu Quốc hội Việt Nam Dân chủ Cộng hòa trong các khóa IV, V, VI, và là ủy viên Ban văn hóa – giáo dục của quốc hội.

Sau 1975, ông chuyển vào sinh sống và làm việc tại Thành phố Hồ Chí Minh. Ông mất ngày 19/6/1989 (tức ngày 16/5 âm lịch năm Kỷ Tỵ) tại Bệnh viện Thống Nhất, thành phố Hồ Chí Minh, hưởng thọ 68 tuổi.

Ông có người con gái tên Phan Thị Vàng Anh, và bà cũng là một nhà văn nổi tiếng.

2. Phong cách sáng tác nghệ thuật

Trong giai đoạn trước cách mạng tháng Tám, thơ ca của Chế Lan Viên là một thế giới mang đúng nghĩa “trường thơ loạn” nổi tiếng với màu sắc “kinh dị, thần bí, bế tắc của thời Điêu tàn với xương, máu, sọ người, với những cảnh đổ nát, với tháp Chàm.”  Những tháp Chàm điêu tàn, đổ nát là một nguồn cảm hứng lớn đáng chú ý của nhà thơ Chế Lan Viên. Qua những phế tích đổ nát và không kém phần kinh dị, thần bí trong thơ Chế Lan Viên, ta thấy ẩn hiện đâu đó hình bóng của một vương quốc hùng mạnh thời vàng son, cùng với những nỗi niềm hoài cổ của nhà thơ.

Giai đoạn sau Cách mạng tháng Tám, những sáng tác của Chế Lan Viên có sự thay đổi nhẹ, thơ ca của ông đi theo một chiều hướng khác, đến gần hơn với quần chúng nhân dân. Trong thời kì từ năm 1960 – 1975, thơ Chế Lan Viên vươn tới khuynh hướng sử thi hào hùng, đậm chất chính luận và mang tính thời sự. Thời kì sau 1975, phong cách sáng tác của Chế Lan Viên lại có sự thay đổi rõ rệt, thơ ca của ông dần trở về với đời sống, sự trăn trở trong cái “tôi”.

Bài thơ “Tiếng hát con tàu” được Chế Lan Viên sáng tác vào năm 1960 và in trong tập thơ “Ánh sáng và phù sa”. Đó là thời điểm miền Bắc sau những năm tháng kháng chiến giành thắng lợi. Trong hoàn cảnh đó, “Tiếng hát con tàu” được ra đời, bài thơ đã góp phần làm đẹp cho nền thơ ca viết về công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội. Qua đó, thể hiện cái nhìn đầy mới mẻ, sáng tạo của Chế Lan Viên về cuộc đời, con người. Và có lẽ tác phẩm còn khiến cho người đọc cảm thấy thân thuộc, gần gũi bởi màu sắc triết lí, sự thân thương. Ai cũng đều nhận thức được cho mình con đường đi đến hòa bình, tự do và cuộc sống mới.

=> Chế Lan Viên nổi tiếng với hồn thơ giàu trí tuệ, mà điều đó không phải ai cũng có thể cảm nhận được. Song không thể phủ nhận những điều đặc sắc, những ý niệm trong các tác phẩm của ông mang lại, điều đó thể hiện rõ phong cách nghệ thuật của một nhà thơ lớn.

3. Một số tác phẩm tiêu biểu trong sự nghiệp của Chế Lan Viên

Chế Lan Viên nổi tiếng với các tập thơ như:

  • Điêu tàn (được viết năm 1937),
  • Gửi các anh, (được viết năm 1954), 
  • Ánh sáng và phù sa ( được viết năm 1960), 
  • Hoa ngày thường – Chim báo bão (được viết năm 1967),  
  • Những bài thơ đánh giặc (được viết năm 1972), 
  • Đối thoại mới (được viết năm 1973), 
  • Ngày vĩ đại, 
  • Hoa trước lăng Người, 
  • Dải đất vùng trời,…

4. Giải thưởng đạt được

Ông vinh dự được nhà nước truy tặng Giải thưởng Hồ Chí Minh về Văn học nghệ thuật vào năm 1996.

5. Nhận định về nhà thơ Chế Lan Viên

Những thành tựu nghệ thuật mà Chế Lan Viên đã đạt được trong quá trình sáng tác chính là những đóng góp to lớn đối với sự phát triển của thơ ca Việt Nam nói riêng và của văn chương Việt Nam nói chung.

Chế Lan Viên là nhà thơ cả đời luôn đi tìm tòi, khám phá và sáng tạo nghệ thuật. Ông luôn biết kế thừa, phát huy, kết tinh những tinh hoa của nền văn học và nhân loại để mang lại cho tác phẩm của mình một vẻ đẹp riêng hết sức độc đáo. Ông có sự nhận thức sâu sắc về vai trò, sức mạnh của văn chương và sứ mệnh thiêng liêng cao cả của người nghệ sĩ đối với cuộc sống.

Trên đây là toàn bộ những thông tin về cuộc đời, sự nghiệp văn học của nhà thơ Chế Lan Viên mà Butbi đã tìm hiểu và tổng hợp, hi vọng bài viết này sẽ giúp các bạn hiểu hơn về một thi hào của dân tộc.