Mở bài Thương vợ là tài liệu vô cùng hữu ích mà Bút Bi muốn giới thiệu đến các bạn học sinh lớp 11 tham khảo. Thông qua 15 mẫu mở bài Thương vợ này, các bạn có thêm nhiều tư liệu để tham khảo và trau dồi vốn từ củng cố kiến thức, rèn luyện kỹ năng viết kết bài phân tích Thương vợ một cách ngắn gọn và xúc tích nhất. Sau đây là nội dung chi tiết mời các bạn cùng theo dõi.
Tham khảo thêm:
1. Mở bài Thương vợ trực tiếp
Mở bài Thương vợ trực tiếp (mẫu 1)
Trần Tế Xương là một trong những nhà thơ có cảm quan nhạy cảm trước những đối thay cá nhân tình thế thái. Xã hội của thời Tú Xương sống là xã hội đang bị đảo lộn về tất cả ngay cả về giá trị thiêng liêng nhất là tình thương cũng bị mai một, tình người với người chỉ còn là một thứ tình cảm hời hợt bán mua, đổi chác quá đỗi dễ dàng. Giữa xã hội nhố nhăng ấy, nhà thơ đã tự giữ lại cho mình tình cảm cao quý nhất là tình yêu đối với người vợ của mình. Thương vợ chính là một bài thơ hay nhất ghi lại tình yêu chân thành của nhà thơ dành cho người vợ vừa có sự cảm thông, chia sẻ và biết ơn vừa chính là lời tự thán, tự trách bản thân về trách nhiệm của một người chồng.
Mở bài Thương vợ trực tiếp (mẫu 2)
Nhắc đến những nhà thơ trào phúng trung đại thì chúng ta nhớ đến đầu tiên có lẽ là Trần Tế Xương. Quả thật thơ của ông mang những nét trào phúng đặc biệt nhất, nó không nhẹ nhàng nhưng mà thâm thúy sâu cay như Nguyễn Khuyến mà nó sâu cay, cười mỉa mai ở trước những cái sự đời. Cũng giống như Nguyễn Khuyến, Trần Tế Xương cũng có bài thơ tự cười chính mình, không chỉ cười xã hội mà tác giả còn cười chính bản thân mình. Và cũng chính vì vậy mà Nguyễn Khuyến có bài tự trào thì Trần Tế Xương cũng có bài Thương vợ. Nhan đề bài thơ đã gợi lên cho ta tình cảm của nhà thơ dành cho người vợ của mình nhưng đồng thời nội dung bài thơ còn thể hiện một tiếng cười về chính bản thân bất tài vô dụng của Trần Tế Xương.
Mở bài Thương vợ trực tiếp (mẫu 3)
Tú Xương chính là nhà thơ trào phúng bậc thầy ở trong nền văn học Việt Nam. Ngoài những bài thơ trào phúng sắc nhọn, lấy tiếng cười để làm vũ khí chế giễu và đả kích sâu cay bộ mặt xấu xa và đồi bại của cái xã hội thực dân nửa phong kiến và ông còn có một số bài thơ trữ tình, chứa chất bao nhiêu nỗi niềm của một nhà nho nghèo về tình người và tình đời vô cùng sâu nặng. “Thương vợ” chính là bài thơ cảm động nhất trong những bài thơ trữ tình của Tú Xương. Nó là một bài thơ tâm sự và đồng thời cũng là một bài thơ thế sự. Bài thơ chứa chan tình thương yêu nồng hậu của tác giả đối với người vợ hiền thảo.
Mở bài Thương vợ trực tiếp (mẫu 4)
Trần Tế Xương hay còn được gọi là Tú Xương, ông là một tác giả nổi tiếng với nhiều tác phẩm mang tính chất trào phúng và trữ tình. Ông chỉ sống 37 tuổi và học vị tú tài, nhưng sự nghiệp thơ ca của Tú Xương đã trở thành bất tử. Ông đã để lại khoảng 100 tác phẩm gồm: thơ, văn tế, phú, câu đối. Một trong những tác phẩm tiêu biểu nhất của ông là bài thơ “Thương vợ”. Một bài thơ cô đọng ở trong đó là những phẩm chất tốt đẹp của người vợ, người phụ nữ đảm đang và chịu thương, chịu khó vì hạnh phúc của chồng con.
Mở bài Thương vợ trực tiếp (mẫu 5)
Thơ văn của Trần Tế Xương gồm hai mảng lớn là: trào phúng và trữ tình. Có bài hoàn toàn là đả kích và châm biếm, có bài thuần là trữ tình. Tuy vậy, hai mảng không tuyệt đối ngăn cách nhau. Thường là châm biếm rất sâu sắc nhưng vẫn có chất trữ tình. Ngược lại, trữ tình thấm thía cũng pha lẫn chút cười cợt theo thói quen trào phúng. Thương vợ chính là một bài thơ như thế.
2. Mở bài gián tiếp Thương vợ
Mở bài gián tiếp Thương Vợ ( mẫu số 1)
“Văn học nằm ngoài những quy luật của băng hoại. Chỉ mình nó không thừa nhận cái chết”. Thơ văn của Tú Xương chính là một trường hợp như vậy. Thể xác của ông đã hơn 100 năm nay đã hòa tan làm một cùng với đất mẹ nhưng về sự nghiệp văn chương của con người tài hoa ấy chưa bao giờ ngừng sống làm lay chuyển lòng người và bất chấp mọi thử thách của thời gian.
Nhắc đến Tú Xương chúng ta không thể không nhắc đến “Thương vợ” bài thơ trữ tình thấp thoáng nụ cười hóm hỉnh và trào phúng bản thân và bày tỏ tấm lòng yêu thương, kính trọng của ông đối với người vợ tần tảo hi sinh suốt một đời vì chồng, vì con và vì gia đình.
Mở bài gián tiếp Thương Vợ ( mẫu số 2)
Nói về tình nghĩa vợ chồng không chúng ta không thể không nhắc đến tác phẩm Thương vợ của Trần Tế Xương. Đúng là Tú Xương đã ý thức được sâu xắc cái vô tích sự của mình, cái gánh nặng mà mình đã đem đến cho vợ nên mới có lời “tự chửi” như thế. Nhưng một người chồng mà đã dám viết và đã viết ra một lời như vậy thì hẳn là phải ăn năn nhiều về mình và thương quý và nể trọng vợ biết bao nhiêu. Người mà viết ra câu thơ “có chồng hờ hững” này chắc chắn không thể là một người chồng hờ hững, mà trái lại, luôn mang ơn và biết đến công lao vợ đã nuôi mình. Chỉ có điều, tác giả không làm gì, không có cách gì để giúp cho vợ. Đó chính là “cái bi kịch” gia đình đã trở thành nỗi niềm Thương vợ của ông trong bài thơ này.
Mở bài gián tiếp Thương Vợ ( mẫu số 3)
Thơ xưa viết về đề tài người vợ đã ít, mà viết về người vợ khi còn sống lại càng hiếm hoi hơn. Các thi nhân thường chỉ viết thơ khi người bạn trăm năm đã qua đời. Kể cũng là một điều nghiệt ngã khi người vợ đi vào cõi thiên thu mới được bước vào địa hạt của thi ca. Bà Tú Xương có thể đã phải chịu rất nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ thời xưa không có được: Ngay lúc còn sống bà đã đi vào thơ của ông Tú Xương với tất cả niềm thương yêu và trân trọng của chồng. Trong thơ của Tú Xương, có một mảng lớn viết về đề tài người vợ mà bài Thương vợ là một trong những bài xuất sắc nhất.
Mở bài gián tiếp Thương Vợ ( mẫu số 4)
Người phụ nữ đã đi vào văn học khá là nhiều và trở thành một trong những hình tượng lớn của nền văn chương kim cổ. Tuy nhiên viết về người phụ nữ với một tư cách là một người vợ bằng tình cảm của một người chồng thì quả thật rất là hiếm. Thương vợ của Tú Xương nằm ở trong số những trường hợp hiếm hoi ấy. Bài thơ là chân dung bà Tú, người bạn đời của nhà thơ Tú Xương, được tái hiện bằng tất cả tấm lòng chân thành của một người chồng dành cho người vợ.
Mở bài gián tiếp Thương Vợ ( mẫu số 5)
Phụ nữ là một đề tài lớn ở trong văn học Việt Nam. Từ các tác phẩm văn chương hiện lên với vẻ đẹp chân dung và đức hạnh trên nhiều bình diện. Tuy nhiên hiếm có một thi nhân nào viết về người phụ nữ cùng với tư cách là người vợ bằng tình cảm chân thành của một người chồng như trong thơ của Trần Tế Xương. “Thương vợ” chính là một bài thơ tiêu biểu khắc họa sinh động hình ảnh bà Tú cùng với những phẩm chất vô cùng tốt đẹp giàu đức hy sinh, chịu thương chịu khó và nhẫn nại, kiên cường vì chồng vì con. Hình ảnh ấy đã trở thành điển hình cho nét đẹp của những người phụ nữ Việt.
3. Mở bài Thương vợ nâng cao
Mở bài Thương Vợ nâng cao (mẫu 1)
Trần Tế Xương (1870 – 1907) hay còn gọi là Tú Xương, quê ở làng Vị Xuyên, huyện Mỹ Lộc, Nam Định (nay là phố hàng Nâu, thành phố Nam Định). Ông có một cá tính rất phóng túng nên dù có tài nhưng thi đến tám lần cũng chỉ đỗ tú tài. Tú Xương sống vào giai đoạn giao thời, giữa lúc xã hội phong kiến lại chuyển thành xã hội thực dân nửa phong kiến. Nam Định chính là nơi diễn ra cuộc sống ấy sớm và khá tập trung. Đó chính là hiện thực mà Tú Xương đã phản ánh vô cùng sinh động và sắc nét trong một tiếng thơ trào phúng đặc sắc, với tiếng cười vỗ mặt rất sâu cay. Bên cạnh đó, ông còn có những bài thơ trữ tình rất đằm thắm mà tiêu biểu là bài Thương vợ viết về một người bạn đời hiền thục, tần tảo của mình. Cũng như nhà thơ Nguyễn Khuyến, Tú Xương cũng có công phát triển tiếng Việt văn học, Việt hóa thể thơ Đường luật thêm một bước dài và góp phần đổi mới cho nghệ thuật dân tộc. Ông đã để lại hơn 100 bài thơ đều bằng tiếng Việt. Bài Thương vợ được viết vào khoảng 1896 – 1897. Nhà thơ có đến mấy bài thơ viết về người vợ. Bà là Phạm Thị Mẫn, quê ở Hải Dương, là một người vợ hiền thục, đảm đang tần tảo, rất mực yêu chồng và thương con, bà biết trọng tài năng cá tính của ông. Vì vậy, Tú Xương rất nể và thương quí vợ. Bài thơ thể hiện được cả hai mặt của thơ Tế Xương: ân tình và hóm hỉnh.
Mở bài Thương Vợ nâng cao (mẫu 2)
Nói đến thơ trào phúng không ai có thể quên Tú Xương, một giọng thơ đả kích, phê phán sắc sảo, cay độc và mạnh mẽ hiếm có. Nhà thơ Chế Lan Viên đã từng viết rằng: “Tú Xương cười như mảnh vỡ thủy tinh”. Nhưng Trần Tế Xương không chỉ là một nhà thơ hiện thực về chủ nghĩa như vậy, nói như Nguyễn Tuân, chất hiện thực đó chỉ là “chân trái”, còn “chân phải” của ông chính là chất trữ tình. Trân trọng cảm phục và nhớ đến thơ Tú Xương nhiều hơn có lẽ do người đời được nghe nhịp đập của một trái tim rất chân thành, giàu cảm xúc, biết trọng nhân cách, mang một nỗi đau vời vợi không thể nào nguôi. Buồn vì không có tiền để giúp đỡ một người ăn mày, một đồng bào cùng cảnh ngộ, ông đã thề độc: “Cha thằng nào có tiếc không cho”. Mang nỗi nhục nô lệ của một người tri thức và ông chua chát: “Nhân tài đất Bắc kìa ai đó! Ngoảnh cổ mà trông cảnh nước nhà”…
Mở bài Thương Vợ nâng cao (mẫu 3)
Nhan đề Thương vợ không biết có phải là do tác giả hay người đời sau đặt tên cho bài thơ? Thế nhưng có một điều rất chắc chắn rằng bài Thương vợ được xem là một trong những bài thơ xuất sắc nhất trong mảng thơ lớn viết về người vợ của nhà thơ Tú Xương. Thơ xưa viết về người vợ đã ít, mà viết về những người vợ khi đang còn sống lại càng hiếm hoi. Các thi nhân thường chỉ làm thơ khóc vợ khi mà người bạn trăm năm của mình qua đời. Bà Tú dù có phải chịu nhiều nghiệt ngã của cuộc đời nhưng bà lại có một niềm hạnh phúc mà bao kiếp người vợ thời xưa không có được, đó là bà bước vào địa hạt thi ca của Tú Xương: Bà bước vào thơ ca của ông Tú cùng với tất cả niềm thương yêu, trân trọng của chồng. Tình thương vợ sâu nặng của nhà thơ Tú Xương đã được thể hiện qua sự thấu hiểu nỗi vất vả gian lao và phẩm chất cao đẹp người phụ nữ chính là bà Tú.
Mở bài Thương Vợ nâng cao (mẫu 4)
Nguyễn Khuyến khi viết về nhà thơ Tú Xương đã dùng những vần thơ đầy cảm xúc:
“Kìa ai chín suối xương không nát
Có lẽ nghìn thu tiếng vẫn còn”
Đó là sự còn lại của một tài năng nghệ thuật và một tâm hồn, một nhân cách lớn ở trong nền văn học trung đại nói riêng cũng như nền văn học Việt Nam nói chung: Trần Tế Xương.
Mở bài Thương Vợ nâng cao (mẫu 5)
Trong lịch sử văn học trung đại Việt Nam Tú Xương là một nhà thơ viết về vợ nhiều nhất. “Thương vợ” chính là bài thơ thành công nhất ở trong mảng đề tài này của ông. Bài thơ đã khắc họa chân thực được hình ảnh bà Tú một người vợ, người mẹ và một người phụ nữ đảm đang, tháo vát, chịu thương chịu khó và giàu lòng hy sinh dành cho chồng con. Nhưng ẩn đằng sau đó chính là hình ảnh ông Tú mang trong mình một nét đẹp nhân cách và tâm hồn. Một người chồng thương yêu, cảm thông và tri ân sâu sắc với vợ của mình dám cất lên tiếng chửi đời, chửi mình và nhận khuyết điểm về bản thân.
Hy vọng bài viết trên đây của Bút Bi sẽ giúp các bạn học tốt hơn trong chương trình ngữ văn lớp 11.
Tham khảo thêm: