Dàn ý và văn mẫu phân tích khổ 3 4 bài sóng hay nhất

0

Bài Phân tích khổ 3 4 bài Sóng giúp chúng ta cảm nhận được nỗi niềm của những con người phụ nữ trong tình yêu. Đó chính là một tình yêu đằm thắm và thiết tha nhưng không kém phần nồng hậu và da diết. Đây cũng chính là một trong hồn thơ đầy thiên tính nữ. Gieo vào lòng người những xúc cảm thật nhẹ nhàng về tình yêu nhưng cũng đủ lắng đọng để ta phải chiêm nghiệm lại.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích khổ 3 4 bài Sóng chi tiết

a) Mở bài phân tích khổ 3 4 bài Sóng

– Giới thiệu đôi nét về tác giả và tác phẩm:

  • Xuân Quỳnh chính là một gương mặt tiêu biểu của phong trào thơ trẻ chống Mĩ với hồn thơ rất đỗi trẻ trung, tươi mát, và đầy nữ tính.
  • Có thể nói, cùng với “Thuyền và biển” và “Thơ tình cuối mùa thu”, bài thơ “Sóng” đã là kết tinh được tất cả những gì là sở trường nhất của hồn thơ của Xuân Quỳnh.

– Khái quát qua nội dung khổ 3 và 4: là hình tượng sóng đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ muốn được yêu, và được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

b) Thân bài phân tích khổ 3 4 bài Sóng

* Khái quát về hình tượng của “sóng”

– Hình tượng trung tâm và cũng nổi trội trong bài thơ là hình tượng “sóng”, đã bao trùm cả bài thơ là hình tượng sóng.

  • Sức sống và vẻ đẹp tâm hồn là của nhà thơ trẻ cũng như mọi sáng tạo nghệ thuật trong bài thơ đều gắn liền với hình tượng những con sóng. Cả bài thơ đây là những con sóng tâm tình của một trong những người phụ nữ được khơi dậy khi đứng trước biển cả.
  • “Sóng” là một trong những hình tượng đã  ẩn dụ, nó là sự hóa thân của cái tôi trữ tình của nhà thơ Xuân Quỳnh. “Sóng” và “em”, là vừa hòa hợp là một, lại vừa phân đôi để soi chiếu, và cộng hưởng. Tâm hồn người phụ nữ đang yêu đến soi vào sóng để thấy rõ hơn lòng mình, nhờ sóng để biểu hiện những trạng thái của chính lòng mình.

-> Với hình tượng sóng, ta có thể nói Xuân Quỳnh đã đến tìm được một cách thể hiện thật xác đáng và tâm trạng của người phụ nữ trong những tình yêu.

– Hình tượng sóng cũng đã gợi ra trong cả bài thơ bằng âm điệu: Bài thơ có một âm hưởng dào dạt, và nhịp nhàng, lúc sôi nổi trào dâng, lúc thì thầm sâu lắng, gợi âm hưởng của những đợt sóng đã vỗ miên man, vô tận. Âm hưởng ấy được tạo dựng nên bởi thể thơ năm chữ, và với những câu thơ liền mạch, từng không ngắt nhịp, các khổ thơ được gắn kết cùng với nhau bằng cách nối vần là (“Khi nào ta yêu nhau”… “Con sóng dưới lòng sâu”).

-> Nhịp sóng đó cũng là nhịp lòng của tác giả, một tâm trạng đang xao động, trào dâng, và miên man và chất chứa những khát khao, rạo rực.

* Đoạn thơ cũng là một khám phá về sóng, mỗi khổ thơ sóng cũng lại hiện ra một ý nghĩa khác

“Ôi con sóng… ngực trẻ”

– Đến khổ ba của bài thơ, đó là sóng lại hiện lên với một ý nghĩa khác: Nguồn gốc của sóng đó cũng là nguồn gốc bí ẩn của tình yêu. Đứng trước biển, là người phụ nữ muốn cắt nghĩa về nguồn gốc của sóng để tìm lời đáp và cho câu hỏi về sự khởi nguồn của tình yêu trong trái tim mình.

“Sóng bắt đầu… ta yêu nhau”

-> Mọi nỗ lực để cắt nghĩa về tình yêu của nhà thơ Xuân Quỳnh cuối cùng trở nên bất lực. Nhà thơ đã  “thú nhận” thành thực, hồn nhiên mà không kém ý nhị, và sâu sắc là: “Em cũng không biết nữa – Khi nào ta yêu nhau”.

c) Kết bài phân tích khổ 3 4 bài Sóng

– Khái quát lại nội dung hai khổ thơ trên.

– Cảm nhận của em: Tình yêu luôn quan trọng với cuộc sống của mỗi con người, mỗi một chúng ta ai cũng có quyền yêu và được yêu. Và tình yêu đã là của tuổi trẻ tình yêu mãnh liệt và cảm xúc trong sáng nhất khi đó.

2. Văn mẫu phân tích khổ 3 4 bài Sóng

Phân tích khổ 3 4 bài Sóng của tác giả Xuân Quỳnh (mẫu 1)

Mẫu bài phân tích Sóng khổ 3 4 hay do học sinh chuyên văn viết:

“Sóng” chính là bài thơ tình tuyệt bút của tác giả Xuân Quỳnh (1942-1988). Bài thơ đã được viết theo thể ngũ ngôn thiên trường và gồm có 38 câu thơ. Qua hình tượng “sóng”, tác giả Xuân Quỳnh đã thể hiện niềm khao khát của người thiếu nữ đã muốn được yêu, và được sống trong một tình yêu hạnh phúc thủy chung.

Bốn khổ thơ dưới đây đã trích trong phần đầu bài thơ. Hình tượng “sóng” là trong sự liên hệ đối sánh với những nhân vật trữ tình “em” và đã đem đến cho tâm hồn ta bao gợi cảm phong phú đầy những bất ngờ:

“Ôi con sóng ngày xưa

Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”.

Sóng là hiện tượng của  muôn đời của đại dương bao la. Còn vũ trụ, là đất trời thì còn có đại dương; đại dương còn thì còn đã “muôn trùng sóng bể”. Sóng là sức sống vĩnh hằng, kì diệu chính của biển, trường tồn trong dòng chảy thời gian là: “Ôi con sóng ngày xưa – Và ngày sau vẫn thế và Từ “ôi” cảm thán cất lên đầy xúc động ngây ngất của nỗi niềm. Sóng của biển và cũng như tình yêu là chuyện muôn đời của lứa đôi, là chính “khát vọng” của trai gái xưa nay. Sóng reo, nơi sóng vỗ trên biển cả mênh mông cũng như là “con sóng” tình yêu biến hóa vô cùng, lúc thì “dữ dội và dịu êm”, còn lúc thì “ồn ào và lặng lẽ” đã làm cho trái tim tuổi trẻ rung động, xao xuyến, và “bồi hồi”:

“Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”.

Hình tượng “sóng” trong vần thơ ngọt ngào thiết tha đầy gợi cảm mang tính nhân văn. “Trước muôn trùng sóng bể” của đại dương thật mênh mông, lớp lớp sóng Hên hồi, vô tận, và thiếu nữ “bồi hồi” nghĩ về quy luật của sự sống, về sự trường tồn của đại dương, về nguyên nhân kì diệu nào mà có là “sóng lên”. Rồi thiếu nữ bâng khuâng nghĩ về những mối nhân duyên của mình, về tình yêu của “em” , “anh”. Điệp ngữ: “Em nghĩ về … Em nghĩ về … kết hợp với câu hỏi tu từ là: “Từ nơi nào sóng lên đó?” đã làm cho giọng thơ nồng nàn, say đắm, và cảm xúc bâng khuâng triền miên đã dào dạt dâng lên. Hình tượng những “sóng” và với những sự liên tưởng phong phú được diễn tả một cách thật thi vị:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên”.

Hỏi sóng rồi hỏi gió là: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Rồi thiếu nữ lại tự hỏi trái tim mình, rồi  tự hỏi lòng mình: “Khi nào ta yêu nhau”. Đó cũng là tâm trạng của “em”, của bất cứ chàng trai cô gái nào trong nơi tình yêu. Và phải nói là mối tình mới có câu hỏi ấy. Tinh yêu đã đến với “em” tự bao giờ, và những cái khắc khoải “thắm lại” của hai tâm hồn “anh” , “em”, đâu dễ trả lời. Ông chúa thơ tình của Xuân Diệu đã viết: ” Làm sao cắt nghĩa được tình yêu”… Tuy là không trả lời được câu hỏi: “Khi nào ta yêu nhau?” những cái khoảnh khắc thần tiên của mối tình đầu mãi mãi được ghi sâu trong lòng người đó là:

“Cái thuở ban đầu đầy lưu luyến ấy

Nghìn năm chưa dễ đã ai quên?”

(Thế Lữ)

Sức gợi cảm của những hình tượng “sóng” thật phong phú và bất ngờ. Sóng tồn tại trong trạng thái “động”, và trong mọi không gian “dưới lòng sâu” hay “trên mặt nước” tầng tầng lớp lớp luôn “muôn trùng sóng bể”. Có sóng ngầm và cả nhấp nhô và sóng biếc. Sóng được nhân hóa, là sóng thao thức suốt đêm ngày trong mọi thời gian và: “Sóng nhớ bờ”, ở trong mọi trạng thái: “Sóng không ngủ được”. Sóng cũng được cảm nhận bằng thính giác, bằng thị giác, và bằng tri giác và cả bằng tâm hồn. Hình tượng “sóng” đã càng trở nên thơ mộng gợi cảm:

“Con sóng dưới lòng sâu

Con sóng trên mặt

Ôi con sóng nhớ bờ

Ngày đêm không ngủ được”.

Cấu trúc song hành, và đối xứng: “dưới lòng sâu // trên mặt nước” và “ngày // đêm”, “nhớ bờ // không ngủ được” và cùng điệp ngữ “con sóng” đã làm cho ngôn ngữ thơ cân xứng hài hòa, âm điệu, nhạc điệu thơ nhịp nhàng, say đắm và ngọt ngào. Nhạc của thơ, chính là vị ngọt tình yêu như được hòa quyện trong không gian, trong thời gian, cả trong lòng người.

Xuân Quỳnh đã có lúc mượn “thuyền” và “biển” làm ẩn dụ để nói lên nỗi nhớ thương của những lứa đôi:

“Những ngày không gặp nhau

Biển bạc đầu thương nhớ

Những ngày không gặp nhau

Lòng thuyền đau rạn vỡ…”.

(Thuyền và biển)

Từ hiện tượng “sóng nhớ bờ”, và nữ sĩ liên tưởng đến nỗi nhớ “em nhớ đến anh”, một nỗi nhớ da diết, triền miên, luôn bồi hồi khôn xiết kể, cả trong cõi thực và cả trong cơn mơ, trong ý thức và cả trong tiềm thức như vậy:

“Lòng em nhớ đến anh

Cả trong mơ còn thức”.

Sóng cũng chính là quy luật vận động của vũ trụ, của đại dương. Tưởng tượng “sóng nhớ bờ” để rồi liên hệ, đối sánh với “em”, với những nỗi niềm “lòng em nhớ đến anh…” thật bất ngờ, và thú vị. Ca dao nói nhiều về nỗi nhớ của nơi trai gái làng quê. Có nỗi nhớ day dứt và khôn nguôi: “Nhớ ai nhớ mãi thế này?- Nhớ những đêm quên ngủ, nhớ ngày đêm quên ăn”. Có nỗi nhớ bồn chồn, ngẩn ngơ là: “Nhớ ai ra ngẩn vào ngơ- Nhớ ai ai nhớ bây giờ nhớ ai”. Có nỗi nhớ thật bồi hồi: “Nhớ ai bổi hổi bồi hồi – Như đứng đống lửa, cũng như ngồi đống than. Qua đó, ta mới cảm thấy nỗi nhớ của “em”, là nhân vật trữ tình trong bài thơ “Sóng”: “Lòng em nhớ đến anh – Cả trong mơ còn thức” là sâu sắc, bất ngờ, luôn mới mẻ.

Năm 1962, nũ thi sĩ Xuân Diệu viết bài thơ tình “Biển” trong đó hình tượng “sóng” là ẩn dụ về chàng trai đa tình, và yêu say đắm, nồng nhiệt:

“Anh xin làm sóng biếc

Hôn mãi cát vàng em

Hôn thật khẽ thật êm

Hôn êm đềm mãi mãi”…

Bài thơ “Biển” cũng là một thử thách lớn đối với Xuân Quỳnh. Năm năm sau, đã bài ra đời, ẩn dụ “sóng” nói về thiếu nữ trong những mối tình đầu với bao phẩm chất tốt đẹp. Đó là nơi sáng tạo, có thể nói là “bất ngờ”.

Người thiếu nữ trong bài thơ “Sóng” đã “tự hát” về nỗi khao khát được đã yêu thương, được sống thủy chung nơi trong tình yêu hạnh phúc. Hình tượng “sóng” gợi lên biết bao cảm xúc mạnh mẽ, nồng nàn, phong phú và bất ngờ. Và Sóng cũng thật mãnh liệt. Em thật nồng nàn say mê bởi lẽ với em thì đó là tình yêu là “khát vọng”.

Phân tích khổ 3 4 bài Sóng tác giả Xuân Quỳnh (mẫu 2)

Bài phân tích Sóng khổ 3 4 đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Tình yêu chính là món quà vô giá mà thượng đế đã ban tặng cho con người. Đó là tiếng lòng đồng điệu và giữa những tâm hồn khát khao yêu thương, đồng cảm, gắn kết trái tim lại lại với nhau. Có lẽ chính vì như vậy mà tình yêu luôn là chủ đề muôn thuở trong thơ ca chữ tình. Nhắc đến thơ ca tình yêu, và khi bên cạnh những tên tuổi lớn như Puskin, Tago trên thi đàn thế giới, thì ta không quên nhắc đến những tên tuổi lớn của nền văn học Việt Nam như là: Xuân Diệu, Nguyễn Bính,… Và đại diện cho tình yêu nồng nàn và đằm thắm của người phụ nữ, không thể không nhắc đến tác giả Xuân Quỳnh. Nữ sĩ đã viết rất nhiều về tình yêu, nhưng để lại dấu ấn sâu đậm phải kể đến chính bài thơ Sóng. Tác phẩm chính là những tiếng lòng nhẹ nhàng nhưng cũng rất mạnh mẽ của người phụ nữ trong tình yêu, và đặc biệt ở khổ 3 và 4 của bài thơ Sóng.

Xuân Quỳnh tên thật là Nguyễn Phạm Xuân Quỳnh, sinh năm 1922 và đã mất năm 1980. Xuân Quỳnh từ nhỏ đã sống chung và được bà nuôi lớn. Chính những ngày tháng sống bên bà đã hun đúc cho Xuân Quỳnh có một hồn thơ nhẹ nhàng đầy nữ tính.

Nhắc đến tác giả Xuân Quỳnh người ta thường nghĩ ngay đến vai trò nhà thơ, nhưng ít khi ai biết được nấc thang đầu tiên Xuân Quỳnh đến với nghệ thuật là làm một  diễn viên múa. Xuân Quỳnh từng tham gia khóa học tại trường Bồi dưỡng như những người trẻ viết văn (Khóa I) do Hội Nhà văn Việt Nam đã tổ chức. Sau đó bà hoạt động tại các tờ báo lớn như là báo Văn nghệ, báo Phụ nữ Việt Nam. Xuân Quỳnh cũng còn là ủy viên Hội Nhà văn Việt Nam.

Bên cạnh những sự nghiệp văn học, cuộc sống cá nhân của nhà thơ cũng đã có thật hạnh phúc. Tuy ở giai đoạn đầu, Xuân Quỳnh có một cuộc hôn nhân nhưng không trọn vẹn nhưng cuối cùng cô đã tìm thấy bên đỗ thật bình yên bên cạnh Lưu Quang Vũ. Thế nhưng trong một tai nạn định mệnh đã đến, đã cướp mất đi hai tài năng của văn học của Việt Nam là Xuân Quỳnh và Lưu Quang Vũ.

Nhắc đến sự nghiệp sáng tác của nhà thơ Xuân Quỳnh, bà đã để lại cho đời một hồn nhẹ nhàng và đằm thắm. Sự nhẹ nhàng ấy cũng thể hiện rõ ở cả hai phương diện sáng tác của tác giả Xuân Quỳnh là thơ viết về tình yêu và thơ viết về em thiếu nhi. Trong bài thơ Sóng, chúng ta vẫn thấy một Xuân Quỳnh nhẹ nhàng sâu lắng nhưng không kém phần dữ dội và mãnh liệt. Mượn hình ảnh sóng nhưng Xuân Quỳnh đã khéo léo đan cài vào sự chuyển động và của sóng là những trạng thái tình cảm, cảm xúc của người phụ nữ trong tình yêu đó.

Mở đầu khổ 3 là một không gian thật là rộng lớn bao la:

“Trước muôn trùng sóng bể”

“Muôn trùng” ý chỉ là số nhiều. Từ đó gợi đã mở không gian rộng lớn bao la. Biển vốn đã thật mênh mông nhưng giờ lại càng rộng lớn hơn gấp bội trong những cách kết hợp “muôn trùng sóng bể”. Dường như đó chỉ có không gian rộng lớn mênh mông ấy, nơi sóng mới có thể thỏa sức vẫy vùng. Trong không gian ấy, những sóng mới có thể là chính mình sống thật với những suy nghĩ cảm xúc đó Và đó không chỉ là không gian hoạt động của sóng mà đó còn là những không gian tâm tưởng của chính em.

Trong không gian rộng lớn ấy, mỗi con người thường thấy mình nhỏ bé. Bởi lẽ mặt biển nhìn có vẻ êm đềm thật là thế nhưng bên dưới là sự vận động không ngừng của nước non. Thời gian cũng thế và Nó cứ diễn ra chậm chạp con người không cảm nhận là được. Những từ giây phút này đã khác giây phút qua đến Mọi thứ luôn vận động không ngừng. Trong sự vận động của thời gian ấy chính con người không thể làm được gì, không thể can thiệp được chỉ đành phó mặc cho những thời gian xô đẩy. Con người không thể làm gì để thoát khỏi quy luật ấy và nên chỉ đành ngậm ngùi chấp nhận như một lẽ tất yếu của một cuộc sống.

Dòng thời gian nơi cũng như dòng nước cứ chảy mãi dường như vô thủy vô chung với cuộc đời này. Đó là vì sao phải đứng trước không gian rộng lớn bao la con người luôn ý thức được rõ ràng hơn của bản thân mình. Xuân Quỳnh cũng vậy tác giả Xuân Quỳnh cũng bắt đầu suy ngẫm về cuộc sống, và suy ngẫm về tình yêu.

Nếu ở hai khổ thơ đầu là,

“Dữ dội và dịu êm

Ồn ào và lặng lẽ

Sông không hiểu nổi mình

Sóng tìm ra tận bể

Ôi con sóng ngày xưa

Và ngày nay vẫn thế

Nỗi khát vọng tình yêu

Bồi hồi trong ngực trẻ”

sự xuất hiện của những nhân vật trữ tình “em” chỉ là sự xuất hiện nơi gián tiếp, thì đến câu thơ này, và nhân vật trữ tình đã trực tiếp xuất hiện

“Em nghĩ về anh em

Em nghĩ về biển lớn”

Điệp cấu “em nghĩ về…” đã càng nhấn mạnh nỗi niềm. Nỗi niềm ấy, và suy tư ấy không phải của ai, là không thay ai nói mà đó là nỗi niềm của riêng một mình Xuân Quỳnh, và của chỉ riêng Xuân Quỳnh mà thôi.

Bài thơ mượn hình ảnh của sóng, là đáng lẽ phải là “sóng nghĩ về” nhưng Xuân Quỳnh lại trực tiếp nói lên nỗi  lòng của mình. Dường như em và sóng cũng đã hòa vào làm một. Nói về sóng nhưng thực chất là nói về những  tình cảm của em dành cho anh. Cảm xúc trào dâng không sao dừng lại được và như những đợt sóng dâng cao vỡ òa trong cảm xúc, rồi để từ đó mà tan ra vô vàn tình cảm.

Đứng trước không gian rộng lớn ấy, chính đáng lẽ điều đầu tiên hoặc đối tượng đầu tiên phải nghĩ đến đó chính là của  bản thân. Nhưng với Xuân Quỳnh thì không làm Điều đầu tiên hiển hiện trong tâm trí của em đó chính là anh. Chỉ có anh mà thôi và Anh luôn là điều đầu tiên em nghĩ đến, là ưu tiên hàng đầu và dường như đây đã đi sâu vào trong  tiềm thức của em. Một khi đã đi vào tiềm thức thì chúng ta cũng hiểu được tình cảm rồi ấy phải sâu đậm đến dường nào. Nghĩ đến anh rồi mới nghĩ đến em và vì Vậy nghĩ gì về anh nghĩ gì về em nghĩ gì về hơn chúng ta. Có lẽ câu trả lời đích xác chỉ có thể em nói mới có thể trả lời được mà thôi.

Tuy không nói nhưng dường như ta vẫn đã cảm nhận được điều mà nhân vật “em” đang nghĩ gì lúc này. Đó là xoay quanh chuyện câu chuyện tình yêu của anh và em. Chuyện tình mình liệu có thành? Liệu anh có yêu em và thật lòng sâu đậm như cách em yêu anh không? Liệu tình mình và có đi đến cái đích cuối cùng của hạnh phúc hay chỉ lại là một sự như dở dang… biết bao nhiêu lo âu. Vì vậy mà đã không hề vô lý khi các tác giả dân gian thường khắc họa nỗi lòng của những cô gái trong tình yêu với biết bao nhiêu bộn bề lo toan như:

“Khăn thương nhớ ai

Khăn vắt lên vai

Khăn thương nhớ ai

Khăn chùi nước mắt

Đèn thương nhớ ai

Mà đèn không tắt

Mắt thương nhớ ai

Mắt ngủ không yên

Đêm qua em những lo phiền

Lo vì một nỗi không yên một bề”

(Ca dao)

Hay những lời tâm sự trong lòng:

“Hòn đá đóng rong vì dòng nước chảy

Hòn đá bạc đầu vì bởi sương sa

Em thương anh không dám nói ra

Sợ mẹ bằng biển, sợ cha bằng trời

Anh với em cũng muốn kết đôi

Sợ vầng mây bạc trên trời mau tan.”

(Ca dao)

Từ chuyện của em, anh đột nhiên lại chuyển sang chuyện của sóng nước:

“Từ nơi nào sóng lên”

Sự chuyển đổi này có vẻ thật vô lý nhưng xét về quy luật của tâm trạng thì nó lại không vô lý một chút nào. Bỏ lửng những dòng suy nghĩ về câu chuyện tình của anh và em về đích đến của mối tình này, để từ đó hướng đến cội nguồn của nơi tình yêu. Mạch cảm xúc cứ trào dâng, mãi mãi không thôi. Câu hỏi có vẻ ngây ngô “từ nơi nào sóng lên” và còn chứa đựng nhiều hơn thế. Đi tìm quy luật của sóng biển và cũng chính là tìm kiếm quy luật của tình yêu.

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu”.

Câu hỏi và “từ nơi nào sóng lên” đã được diễn giải thuật thuyết phục. Sóng cũng được tạo thành nhờ sự chuyển động và của gió trên mặt nước. Vậy khúc mắc đầu tiên cũng đã được gỡ bỏ. Nhưng liệu trái tim có đó thôi băn khoăn không. Câu trả lời là không với  Nối tiếp sự lí giải đó lại tiếp tục là một câu hỏi và “gió bắt đầu từ đâu”. Câu hỏi như muốn đi sâu hơn chính vào cái gốc rễ cội nguồn của sóng hay của chính tình yêu và mà lòng em đang thổn thức.

Nếu cứ kéo dài mãi liệu đó có thể đi đến tận cùng nguồn gốc không. Câu trả lời là bởi không bởi lẽ cứ một vấn đề được giải đáp thì một vấn đề khác đã lại nảy sinh. Nên ta nhận lại được một cái lắc đầu và mỉm cười duyên dáng trước lời tự hỏi đó.

“Em cũng không biết nữa”

Cái lắc đầu đầy đằm thắm đó Thật ra nếu trên góc độ lý trí khoa học thì hoàn toàn có thể lý giải được nơi khỏi khởi phát của gió – đó là sự chuyển động của những không khí. Nhưng em đã từ chối suy nghĩ từ chối trả lời và Bởi lý trí lúc này chẳng có ý nghĩa gì chẳng là gì cả so với trái tim đã đang lỗi nhịp vì tình yêu. Đó không chỉ là cái lắc đầu không mà biết gió xuất phát từ đâu mà còn là cái lắc đầu là vì:

“Khi nào ta yêu nhau”

Câu hỏi này cũng là câu hỏi của muôn thuở trong tình yêu. Tình yêu là gì Vì sao anh yêu em và Khi nào thì ta yêu nhau. Những câu trả lời này đã nếu để trả lời một cách lý trí thì thật khó để tìm ra nhũng đáp án. Nhưng có lẽ rằng câu hỏi này cũng chỉ có thể trả lời bằng trái tim, và trái tim yêu thương sẽ chấp nhận mọi câu trả lời mà nó muốn nghe, và từ những người mà nó muốn nghe…

Em không biết khi nào tình ta bắt đầu, và không phải vì em không yêu anh, cũng chẳng phải vì tình yêu ta chưa từng đậm sâu. Mà vì trái tim em không cần bất kỳ lời giải thích nào, và bởi lẽ em biết mình yêu anh thế là đủ rồi.Tình yêu là thế càng đi tìm câu trả lời thì sẽ càng bế tắc. Bởi lẽ tình yêu là chuyện của trái tim là của cảm xúc như Xuân Diệu đã từng cắt nghĩa nơi tình yêu như sau.

“Làm sao định nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”

Và em cũng chẳng cần biết tình mình bắt đầu khi nào, em chỉ biết mình đã yêu anh khi con tim đã  rung động. Đó là giây phút tình yêu em dành đã cho anh chớm nở và Em cũng không cần quan tâm bởi lẽ điều em cần hiện tại được sống trong tình yêu của anh, đó là hiện tại và tương lai của chúng ta sau này. Đi tìm về quy luật tình yêu để trân quý hiện ở tại hơn nơi Nhìn vào nó không phải để bới móc, oán trách mà nhìn vào để thêm yêu giây phút và cạnh bên nhau.

Bằng việc sử dụng những hình ảnh sóng, tác giả Xuân Quỳnh đã thật tinh tế trong việc đan cài vào đó tình cảm của trái tim. Thể thơ như năm chữ gợi nhiều cảm xúc kết hợp với với các hình ảnh gợi tả dã tạo nên có một nét nghĩa độc đáo cho bài thơ. Sự thành công ấy cũng còn đến từ ngôn ngữ trần thuật có sự xen lẫn giữa giọng kể và giọng tâm tình. Người đọc đôi cũng có lúc có cảm tưởng sóng và em tuy hai mà một, và cả hai đã hòa vào nhau.

Chỉ với hai khổ thơ ngắn gọn, với cô đọng nhưng ta vẫn cảm nhận được nỗi niềm của người phụ nữ trong khi tình yêu. Đó là một tình yêu đằm thắm thiết tha nhưng cũng không kém phần long hậu da diết. Đây cũng chính là một trong những hồn thơ đầy thiên tính nữ. Gieo vào lòng người những xúc đầy cảm nhẹ nhàng về tình yêu nhưng cũng đủ lắng đọng để ta và phải chiêm nghiệm.

Phân tích khổ 3 4 bài Sóng của tác giả Xuân Quỳnh (mẫu 3)

Mẫu phân tích bài thơ Sóng khổ 3 4 hay do học sinh giỏi văn cấp tỉnh viết:

Trong những dàn đồng ca các nhà thơ trẻ thời chống Mỹ cứu nước, tác giả Xuân Quỳnh nổi lên như một tiếng thơ đầy trẻ trung, và tươi mát và nữ tính. Tình yêu trải qua ngòi bút của bà luôn luôn in đậm dấu ấn cái tôi phụ nữ nồng nàn, táo bạo mà vô cùng tha thiết, và chân thành. Tất cả điều ấy được thể hiện trong một tiếng thơ giản dị, và hồn nhiên như bản năng – “Sóng”, đặc biệt đó là khổ thơ ba và bốn.

 

     Bài thơ là kết quả của những chuyến đi thực tế ở vùng biển Diêm Điền – Thái Bình năm 1967, được đưa vào tập thơ đó là “Hoa dọc chiến hào” (1968). Con người Việt Nam thời kì kháng chiến đã lại viết về tình yêu, tình cảm riêng tư và vĩnh hằng nhất của những nhân loại. Vì thế, mà bài thơ được coi là “bông hoa lạ” nở “dọc chiến hào” những năm tháng kháng chiến chống Mỹ. Sau hai khổ thơ đầu chính là về những quy luật của tình yêu, “em” vẫn còn chưa thỏa mình mà muốn truy tìm căn nguyên, và nguồn gốc của tình yêu.

     

Trước không gian mênh mông biển lớn, đó là người già hay nghĩ về sự hư vô, nhỏ bé của kiếp người; kẻ tráng chí hùng tâm lại một lòng: “Muốn vượt bể Đông theo cánh gió/ Muôn trùng sóng bạc tiễn ra khơi” (tác giả Phan Bội Châu); kẻ đa cảm lại thấy là: “Vắng cánh buồm một chút cũng cô đơn” (tác giả Hữu Thỉnh). Còn Xuân Quỳnh, cũng đứng trước biển lại là những suy nghĩ, và cảm nhận chân thực và cụ thể nhất:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?”

     Trước sự mãnh liệt và cực kì diệu của tình yêu, con người luôn có nhu cầu khám phá những bí ẩn vốn luôn tồn tại trong khi nó, luôn muốn cắt nghĩa được cội nguồn của cơn tình yêu. Song đó lại là một trạng thái tâm lý dễ giả thích bằng những lý lẽ thông thường, khó ai có thể trả lời một cách chính xác về nguyên nhân, và khởi nguồn của tình yêu, cũng như khi nhà thơ Xuân Diệu băn khoăn: “Làm sao cắt nghĩa được tình yêu?”. Câu hỏi với : “Từ nơi nào sóng lên” nhẹ lơi như hơi thở, tưởng bâng quơ mà hóa ra bận bịu trong lòng người. Vẫn là ước muốn truy tìm đến tận cùng bản thể: “Con người từ đâu đến? Nó sẽ đi về đâu?  và Tinh yêu từ nơi nào mà lớn lên vậy?”

 

     Khổ thơ tiếp theo nói lại là câu hỏi dồn dập như những con sóng nối tiếp đến vô cùng, miên man không dứt, với đưa con người tới những suy ngẫm vô tận:

“Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu?

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

     Trả lời cho câu hỏi: “Từ nơi nào sóng lên?”, và lời đáp thật dễ dàng, chóng vánh: “Sóng bắt đầu từ gió”. Câu hỏi thứ hai ráo riết hơn, lý trí muốn đẩy những băn khoăn đến tột cùng: “Gió bắt đầu từ đâu?”. Những câu hỏi tu từ ấy lúc ẩn duối chân sóng, lúc lại trào lên đầu ngọn sóng như trăn trở. Nhân vật trữ tình không cảm nhận về sóng mà luôn nghĩ về sóng. Nương theo những con sóng, và nhà thơ bắt đầu hành trình tìm kiếm nơi khởi nguồn tình yêu và phân tích, lý giải bản chất của tình yêu. Đó cũng là mong muốn muôn đời của biết bao nhiêu đôi lứa. Câu trả lời vừa là sự thú nhận, và với vừa là sự thức nhận: “Em cũng không biết nữa/ Khi nào ta yêu nhau”. Thú nhận về những sự bất lực trên hành trình tìm kiếm nguồn cội tình yêu nhưng lại là sự thức nhận sâu sắc là: tình yêu là điều huyền diệu, con người chỉ có thể cảm nhận chứ không thể truy tìm cội nguồn, và cũng không thể cắt nghĩa rõ ràng, tách bạch phải Chẳng phải thể mà Xuân Diệu cũng chia sẻ:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có khó gì đâu một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ, gió hiu hiu”

     Xuân Diệu hỏi để lý giải còn Xuân Quỳnh nghiêng về tiếng nói về tình cảm. Hỏi chỉ để cảm nhận được những sự hiện của tình yêu.

     Như vậy, qua hình tượng sóng, tác giả Xuân Quỳnh đã thể hiện được những chiêm nghiệm, và suy ngẫm về cội nguồn của tình yêu cũng như cung bậc của người phụ nữ khi đang yêu. Sự song hành hình tượng sóng  em đã khắc họa vẻ đẹp vừa dịu dàng, tinh tế, vừa chủ động mãnh liệt, và vừa truyền thống vừa hiện đại của một tình yêu chân thành, chính tha thiết. Thể thơ năm chữ với cách ngắt nhịp như phóng túng đã thể hiện xuất sắc âm hưởng dào dạt của sóng biển, và sóng lòng. Câu hỏi tu từ, hình ảnh thơ vừa tự nhiên, và trong sáng lại có sức gợi mở và suy tưởng đến sự không ngờ.

     Một nhà phê bình Pháp từng khẳng định là: “Thơ, tự truyện của khát vọng” có lẽ là dành cho nhà thơ Xuân Quỳnh. Thơ ca, với bà, là sự sống, là tình yêu, và làm thơ là được sống với chính mình, đa sống đầy đủ và trọn vẹn mình. Đọc thơ Xuân Quỳnh, và ta cũng cảm nhận được tình yêu và nghe được khát vọng trong chính mình. Đó là lý do, vượt qua sự băng hoại thời gian, thơ ca đã, nơi vẫn và sẽ sống cùng ta đến ngày tận thế

Phân tích Sóng khổ 3 4 tác giả Xuân Quỳnh (mẫu 4)

Bài văn phân tích Sóng khổ 3 4 học sinh trường chuyên viết:

Coi thơ là sự một sống, là tình yêu, là tất thảy ý nghĩa cuộc đời mình, Xuân Quỳnh đã gửi trọn những tâm sự, và cảm xúc dạt dào, mãnh liệt của mình vào những như trang thơ. Bài thơ “Sóng” của nữ sĩ chính là một lời sẻ chia tâm trạng, cảm xúc được rất nhiều người  đã đón nhận. Sau hai khổ thơ đầu nói về hình tượng sóng và và quy luật của tình yêu, khổ thơ ba và bốn tiếp tục để lại trong lòng khi người đọc những suy nghĩ, ấn tượng đặc biệt.

     Tác giả Xuân Quỳnh tên khai sinh là Nguyễn Thị Xuân Quỳnh, một nghệ sĩ tinh tế và tài hoa, và người con của đất Hà Tây (nay là Hà Đông, Hà Nội). Đọc thơ Xuân Quỳnh, như những cảm xúc, nghĩ suy nữ sĩ gửi vào đó làm bao người đọc trăn trở và mong muốn luôn được sẻ chia cùng. Có những bài thơ tràn ngập hạnh phúc và đắm say, có những câu thơ đượm nỗi suy tư, nơi trăn trở. Sự đằm thắm, dịu dàng nhưng cũng đầy nhưng mạnh mẽ, táo bạo đã giúp cho những cảm xúc ấy đi vào thơ với dáng nét rất riêng, và đậm chất Xuân Quỳnh. Với nhà thơ, thì văn chương nghệ thuật mà đặc biệt là thơ ca, có vai trò quan trọng, là tựa như sự sống, tình yêu của cuộc đời mình là: “Nếu ngày mai em không làm thơ nữa/ Cuộc sống trở về bình yên/ Ngày nối nhau trên đường phố êm đềm/ Không nỗi khổ, không niềm vui kinh ngạc…”. Bài thơ “Sóng” đã được nhà thơ viết năm 1967 trong chuyến đi thực tế đến biển Diêm Điền, tỉnh Thái Bình. Tác phẩm rút từ tập thơ “Hoa dọc chiến hào” xuất bản năm 1968, và được xem như một bông hoa lạ giữa vườn thơ chống thực dân Mỹ. Hai khổ thơ đầu nhà thơ đã xây dựng hình tượng sóng với như những quy luật của tình yêu. Đến với hai khổ thơ tiếp theo là nói đến sóng và chính hành trình tìm kiếm nguồn cội của tình yêu.

     Khổ ba, bốn trong bài là những dòng thơ đã nói về sóng và hành trình đi kiếm tìm nguồn cội của tình yêu:

“Trước muôn trùng sóng bể

Em nghĩ về anh, em

Em nghĩ về biển lớn

Từ nơi nào sóng lên?

Sóng bắt đầu từ gió

Gió bắt đầu từ đâu

Em cũng không biết nữa

Khi nào ta yêu nhau”

 

Nghĩ về “yêu”, nhà thơ Xuân Diệu có viết:

“Yêu là chết ở trong lòng một ít

Vì mấy khi yêu mà chắc được yêu

Cho rất nhiều song nhận chẳng bao nhiêu

Và cảnh đời là sa mạc cô liêu

Và tình ái là sợi dây vấn vít

Yêu, là chết ở trong lòng một ít”

     Với Xuân Diệu đó là, “yêu là chết ở trong lòng một ít”. Với Xuân Quỳnh, bà luôn gửi nghĩ suy về tình yêu qua hình tượng những con sóng ấy . Nữ sĩ đưa ra một loạt các câu hỏi tu từ và để từ đó gửi gắm những nghĩ suy, trăn trở là: “Từ nơi nào sóng lên?”, “Gió bắt đầu từ đâu?, “Khi nào ta yêu nhau”. Những câu hỏi tu từ ấy này vừa tái hiện hình ảnh những con sóng đã ngoài đại dương mênh mông lúc lắng xuống lúc lại trào lên mạnh mẽ, và đồng thời nhà thơ cũng thầm kín muốn nhắc đến những con sóng lòng nơi người con gái và đang yêu. Từ hình ảnh những con sóng, là nhà thơ bắt đầu đưa ta đến hành trình tìm kiếm nguồn cội của tình yêu và thử lý giải bản chất, đó là ý nghĩa sâu xa của tình yêu. Xuân Diệu cũng trong bài thơ “Vì sao” từng viết:

“Làm sao cắt nghĩa được tình yêu

Có nghĩa gì đâu, một buổi chiều

Nó chiếm hồn ta bằng nắng nhạt

Bằng mây nhè nhẹ gió hiu hiu”

     Xuân Diệu – là ông hoàng thơ tình Việt Nam còn cảm thấy bối rối trong việc khám phá và cắt nghĩa hai chữ là “tình yêu”. Xuân Quỳnh cũng như vậy, bà cũng gửi nỗi trăn trở ấy vào thơ, vào bài “Sóng” khi chân thành và trả lời rằng: “Em cũng không biết nữa”. Thú nhận là Đúng, đó là một lời thú nhận về sự bất lực của con người trước hành trình tìm kiếm vào nơi khởi nguồn của tình yêu. Song, đó cũng còn là một sự thức nhận đó. “Em”, hay có lẽ cũng chính là nhà thơ đã thức nhận ra một chân lý là: tình yêu là một thứ gì đó vô cùng thiêng liêng, đẹp đẽ, con người chúng ta chỉ có thể lặng thầm ngắm nhìn, và cảm nhận chứ chẳng thể cắt nghĩa được.

Bài thơ “Sóng”, và đặc biệt là những hình tượng sóng đã phần nào thể hiện được ngổn ngang những trăn trở, và bâng khuâng trong lòng nhà thơ Xuân Quỳnh. Nữ sĩ ngẫm về tình yêu – thứ tình cảm muôn đời đẹp đẽ, đã thiêng liêng. Đó có thể là thứ tình cảm mang trong rất mình nhiều đối lập. Và đọc khổ thơ ba, và bốn ta hiểu được tình yêu trong cảm nghĩ Xuân Quỳnh còn là những một tình yêu đẹp chỉ có thể được cảm nhận mà không thể tìm kiếm với cội nguồn và cắt nghĩa, lý giải được nó. Từ chân lý đó, nơi người yêu văn chương, yêu thơ Xuân Quỳnh càng ấn tượng hơn với bài thơ “Sóng” và đến yêu mến cái nhìn nghệ thuật đầy tinh tế cùng cách thể hiện sinh động, và sáng tạo của nhà thơ.

Thông qua bài phân tích khổ 3 4 bài Sóng gồm có dàn ý chi tiết kèm theo các bài văn mẫu được tuyển chọn từ bài làm hay của những học sinh giỏi trên cả nước. Mong rằng những kiến thức này sẽ giúp các em học sinh lớp 12 ôn tập, và tích lũy vốn từ để viết văn ngày một những bài hay hơn. Ngoài ra các bạn tham khảo đã thêm rất nhiều bài văn hay khác tại chuyên mục Văn 12. Chúc các bạn học tốt và thi đạt được kết quả cao.

Tham khảo thêm: