Phân tích bài Đất Nước đoạn 2 – Nguyễn Khoa Điềm

0

Phân tích bài Đất nước đoạn 2 của tác giả Nguyễn Khoa Điềm gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các bạn học sinh có thêm nhiều gợi ý tham khảo, sở hữu bài viết đã trọn vẹn ý tứ vừa ăn điểm nhờ tính sáng tạo và màu sắc cá nhân và riêng khi làm bài để đạt được kết quả cao nhất trong kì thi THPT Quốc gia 2022.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm là một bản nhạc mang âm hưởng dân gian hóa trong điệu hồn kháng chiến, và là lời thúc giục tình yêu nước cho mỗi thế hệ Việt Nam hôm nay và cho mai sau. Đất Nước đối với Nguyễn Khoa Điềm cũng là những gì bình thường, và gần gũi nhất.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích bài Đất Nước đoạn 2

a) Mở bài phân tích bài Đất Nước đoạn 2

– Sơ lược về nền văn học trong những năm 1945-1975, cùng với đó giới thiệu tác phẩm.

b) Thân bài phân tích bài Đất Nước đoạn 2

1. Đất Nước đã có từ bao giờ?

– Đất Nước đã ra đời từ rất lâu, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ ngày xưa.

– Gợi ra những truyền thống thật tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, được dựa truyền thuyết.

  • Sự tích Trầu Cau, và khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là những tình nghĩa anh em sâu đậm, và tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của người dân ta đấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
  • Truyền thuyết Thánh Gióng cũng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, và bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông ta.

  • “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc đến người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà và các mẹ thời xưa.
  • “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là những đại diện cho truyền thống coi trọng những tình nghĩa vợ chồng.
  • Đất Nước có từ rất lâu đời được và hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong mỗi cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa, cấy cây…

2. Đất nước là gì?

– Về với không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường” và “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi thật sự thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng đã lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’và “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương đất nước.

– Về thời gian lịch sử:

  • Quá khứ đó cũng là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi đó tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là những con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về những truyền thống hào hùng dựng nước và gìn giữ nước của cha ông.
  • Trong hiện tại, nơi Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, đã bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn sẽ  tồn tại trong từng nếp sống.
  • Trong tương lai đó là một Đất Nước với rất nhiều  triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, đã được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc của cả Đất Nước.

3. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân nước ta:

* Trên phương diện không gian và địa lý:

– Cảm nhận Đất Nước đã qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong những từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với miền quê hương, đất nước.

– Gợi nhắc những truyền thống thật sự tốt đẹp của dân tộc.

– Nhấn mạnh việc đất nước của chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó đã gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc chung một nhà của nhân dân ta.

– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, cũng là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đã nhắc lại thuở xây dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi sau cùng còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc và con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.

=> Khẳng định một cách mạnh thật mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, rất nhiều công góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

* Phương diện thời gian và lịch sử nước ta:

– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ cũng chính là những người làm ra Đất Nước.

– Nhân dân không chỉ là người xây dựng, bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy lại là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Trên bình diện văn hóa:

– Tác giả cũng đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của dân tộc Việt đã nói chung.

– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, đó là nét đẹp say đắm nhất trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở nơi xung quanh mình.

– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”,  và từ đó có thể thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là giá trị vật chất tầm thường.

-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra một vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao nhiêu đời nay.

c) Kết bài phân tích bài Đất Nước đoạn 2

– Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đất Nước của tá giả Nguyễn Khoa Điềm .

2. Những bài văn phân tích bài Đất Nước đoạn 2

Bài phân tích bài Đất Nước đoạn 2 Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 1)

Bài phân tích đoạn 2 đất nước đạt điểm 9+ do butbi sưu tầm để các bạn tham khảo:

 Mở đầu bài Đất Nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm khơi dạy cho tâm hồn người đọc tìm về cội nguồn, để nói rõ hơn sự hình thành Đất Nước thì đến đoạn thơ thứ 2, đôi mắt thơ của Nguyễn Khoa Điềm đã được sánh với hình ảnh Đất Nước trong chiều rộng của không gian, trong chiều dài của thời gian lịch sử và trong mối quan hệ gắn bó của mỗi nhân vật.

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất là nơi “con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc”

Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”

Tác giả “ Nguyễn Khoa Điềm “ tiếp tục cho thấy cách sử dụng từ, câu linh hoạt và sáng tạo của mình ở đây, nhà thơ đã chiết tự hai từ Đất Nước để phân tích về linh hồn thẳm sâu bên trong nó. Đất đó là nơi anh đến trường, nước đó là nơi em tắm, nghĩa là hình ảnh đất nước hiện lên vô cùng gần gũi, gắn bó khăng khít với cuộc sống của con người chúng ta . Xưa kia, viết về Đất Nước các nhà thơ thường gọi nó, ví von nó bằng những hình ảnh lung linh hùng vĩ, nay tác giả đã cho ta thấy về đất nước còn là không gian tình tứ, nơi gắn kết tình cảm, nơi khơi nguồn và là những điểm tựa cho hạnh phúc lứa đôi. Là nơi gửi gắm nỗi nhớ thầm của một  người con gái, vậy nên vừa lớn lao mà cũng có thể gọi là là mảnh kí ức gợi nhớ thương cho tâm hồn bất cứ ai. Hai câu thơ tiếp, Đất Nước lại hiện lên trong những câu ca dao, tục ngữ, để thấy được Đất Nước không được chỉ đánh thức ký ức tuổi thơ, mà còn đánh thức cả những miền kí ức văn hóa của chúng ta  và những nét đẹp dân gian truyền thống của cộng đồng.

“Thời gian đằng đẵng

Không gian mênh mông

Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ

Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở

Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào ta trong bọc trứng”

Đất Nước là sự vun đắp , là sự kết thành giữa dòng chảy trôi bất tận của thời gian mênh mông, nhưng thời gian ở đây không phải thời gian vô tri vô thức , mà là thời gian của lịch sử văn hóa. Nói  lại truyền thuyết Lạc Long Quân Âu Cơ, nhắc về ký ức lịch sử văn hóa dân tộc , và đồng thời cũng là một điểm tựa để gợi về  nét đẹp văn hóa văn học dân gian của dân tộc. Đất Nước trong thời gian đằng đẵng, và Đất Nước còn trường tồn bất tử trong không gian mênh mông bao la , không gian hùng vĩ với vị thế vĩ đại.

Ta có thể nhìn Đất Nước trong cả chiều dài thời gian, chiều rộng không gian, Đất Nước còn là sự kết nối những thế hệ trước và thế hệ kế tiếp

“Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau

Hằng năm ăn đâu làm đâu

Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”

Để tạo nên bề dày văn hóa, lịch sử của Đất Nước, chắc chắn là sự bồi đắp , tiếp nối của biết bao thế hệ cháu con đã ngã xuống, hy sinh vì độc lập dân tộc. Đất Nước sáng mãi trong tâm khảm mỗi người bởi sự những  hi sinh vĩ đại, lớn lao, bởi tinh thần dân tộc như ngọn lửa vĩ đại tiếp nối bao thế hệ. Và vì thế, những người con dân tộc luôn tự  nhắc mình đạo lí Uống nước nhớ nguồn truyền thống: Hàng năm, đều nhớ ngày giỗ tổ ở đoạn thơ này , nhà thơ nhìn Đất Nước trong cả những mối quan hệ của mỗi cá nhân:

“Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

Khi hai đứa cầm tay

Đất Nước trong chúng mình hài hòa nòng thắm

Khi chúng ta cầm tay mọi người

Đất nước vẹn tròn, to lớn

Mai này con ta lớn lên

Con sẽ mang đất nước đi xa

Đến những tháng ngày mơ mộng”.

Trong mỗi chúng ta, đều thấm nhuần linh hồn của Đất Nước. Đất nước vì thế là sự thống nhất giữa cái chung và cái riêng, và giữa mỗi cá nhân với tất cả mọi người, giữa cái nhỏ bé và cái to lớn, giữa cái gần gũi mộc mạc đơn sơ và cái xa xôi lớn lao. Để từ đó, bắc cây cầu đến trái tim của độc giả , rằng: Đất nước ở trong ta chứ không phải ở ngoài ta, và vì thế:

“Em ơi em Đất Nước là máu xương của mình

Phải biết gắn bó san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…”

Viết về Đất Nước, thì đó là nguồn cảm hứng bất tận ở  trong mỗi thời kỳ lịch sử, các nhà thơ, nhà văn lại lấy vào nó điệu hồn của thời đại mình. Ở đây, Nguyễn Khoa Điềm đã viết Đất Nước với mong muốn thức tỉnh những người chiến sĩ tham gia vào cuộc kháng chiến của dân tộc, để soi sáng, đã dẫn đường cho họ, thế nhưng giọng thơ của ông không hề mang tính khô khan mà chan chứa, đằm thắm những nghẹn ngào, như một lời gửi gắm chân thành, như một sự chuyển giao giữa các thế hệ . Khiến cho người đọc như phần nào thêm đồng cảm, thêm thấu hiểu về sự hòa quyện, gắn kết của Đất Nước trong tâm hồn mỗi chúng ta . Đất Nước là máu xương của mỗi người, cũng là vì nó được gây dựng và được giữ gìn bằng sự sống và tình yêu của đất nước thiêng liêng của biết bao thế hệ , bao người lính đã hi sinh đã ngã xuống vì chúng ta  . Và còn bởi, Đất Nước cho ta hình hài máu thịt, đã cho chúng ta cách sống và cách nghĩ, cho chúng ta điểm tựa của truyền thống văn hóa, lịch sử – những yếu tố đó đã vun đắp nên những vẻ đẹp và nét tâm hồn riêng của con người Việt Nam, trong đó có cả anh và em, có mỗi cá nhân chúng ta. Nếu bất cứ một cá nhân nào tồn tại đều là những sự đơn độc mà không có một cộng đồng để bám víu, để làm điểm tựa cho khi sự trưởng thành và dưỡng nuôi về văn hóa tinh thần,  thì chẳng khác nào ta trở thành kẻ cô đơn ư ? Đó chính là ý nghĩa thẳm sâu nhất mà bài thơ Đất Nước có sức ảnh hưởng đến mỗi chúng ta. Vì thế mỗi chúng ta đều phải có trách nhiệm hóa thân cho chính  dáng hình xứ sở, đều phải gắn bó và cố gắng bảo vệ , vì đó cũng là sự tạo tác tinh thần của mỗi chúng ta.

Đoạn thơ thứ hai đã thể cho ta thấy sự  sâu sắc của Nguyễn Khoa Điềm về hình ảnh Đất Nước. Do đó, nó không chỉ tạo nên sự đồng cảm trong tâm hồn người đọc mà còn cho ta thấm đẫm những triết lý, tư tưởng. Nhưng cái tài tình của Nguyễn Khoa Điềm là diễn đạt nó bằng cảm xúc nồng nàn, suy tư sâu lắng , bằng cả trái tim nhiệt huyết .

Bài phân tích bài Đất Nước đoạn 2 Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 2)

Mẫu bài phân tích đất nước đoạn 2 đạt điểm 9+ cực hay để các bạn tham khảo:

Đất nước vốn là đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao những văn nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh ấy, tình yêu đối với đất nước lại càng tỏa sáng và cực rực cháy trong lòng mỗi con người dân Việt Nam. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong những bối cảnh ấy.

Khi nhắc đến văn chương ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này cũng như Xuân Quỳnh, Trần Đăng Khoa và Phạm Tiến Duật… họ viết về hào khí của cả một thế hệ dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong số những nhà thơ đó là tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành nhiều  trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc – đó chính là Nguyễn Khoa Điềm.

Khi nói đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm, từ trong tiềm thức của mỗi con người yêu văn chương đều không thể quên được phong cách thơ ông là phong cách thơ nơi trữ tình chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm đã lôi cuốn người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, và thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào cuộc chiến đấu oanh liệt của nhân dân. Một trong những kiệt tác của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến đoạn trích là “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca mặt đường khát vọng” đã được tác giả hoàn thành ở chiến khu Trị – Thiên năm 1971, được in lần đầu năm 1974.

Tác phẩm cũng đã xây dựng thành công được tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, là do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời trên cả ba bình diện đó là: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của miền lịch sử và chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước nhiều hàng trăm những câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra và Sẽ do ai bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” và nơi để trả lời cho những câu hỏi ấy, Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của chính mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước.

Khi nói đến vẻ đẹp của đất nước trên những bình diện của chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là đã có những giá trị mà con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là những giá trị tinh thần cũng có thể là giá trị phi vật thể nơi đây. Tác giả Nguyễn Khoa Điềm nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và là nơi bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của những con người Việt Nam được truyền từ đời này qua đời khác, từ trái tim của người già sang đến lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc Việt Nam. Đất Nước bắt đầu ngay từ một cách trang trọng mà hết sức bình dị, và gần gũi:

Cấu trúc câu “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” là đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì của lịch sử, đất nước tựa như một sinh mệnh sống với những nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê chính là biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, đã góp phần khắc họa đất nước bình dị, gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, và chính đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, và làng xóm. Đất nước là một phần máu thịt của khi trong kí ức của mỗi con người.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Nhà thơ đã ngược dòng cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa và ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, nơi tâm hồn ta, cho ta những bài học nhân sinh về những lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, đùm bọc, và chở che nhau.

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”

Đó là tục nhuộm răng, là tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện”, là sự tích trầu cau, chính là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ tâm hồn Việt đó là từ truyện ca dao, cổ tích đến tục ngữ đến “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, sau là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn của dân tộc. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn đã đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan quân giặc Ân.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh nhân dân ta trồng tre đánh giặc đã không chỉ được lặp lại một lần mà còn xuyên suốt 90 câu thơ hình ảnh này đã được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho truyền thống yêu nước, và đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam. Có thể thấy, đã từ bao đời nay, từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, và cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh tinh thần quật cường đã đánh giặc cứu nước và giữ nước, cũng biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của con người Việt Nam dũng cảm. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác, đã rạo rực niềm tin và niềm tự hào dân tộc.

Giọng thơ thâm trầm, với trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, nơi trữ tình. Cách cảm nhận, cùng lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, nơi thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc và bình dị ngay trong đời sống mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” là nhắc đến chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Đất nước trưởng thành từ khi những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, và thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao những thế hệ. Đất nước lớn lên từ những gian khổ của cha và đã là từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng những gừng cay muối mặn”. Đó là chất liệu của của ca dao tục ngữ, đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, cũng là lối sống thủy chung, son sắt của nhiều những cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” và đã nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong nhiều câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần và sàng” chỉ ra những bước để tạo ra hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền đã cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, nơi ông cha truyền lại cho con cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

Và chính nhân dân là những người cũng đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa của con người Việt Nam. Dần dần tác giả cũng đã nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó…”, và ta không biết ngày đó là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, đã rất xa. Chỉ biết rằng đất nước có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết và từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, nơi từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất thiêng liêng và nơi dùng bàn tay lao động để xây dựng đất nước.

“Ngày đó” vừa là trạng từ chỉ thời gian đó trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước có từ khi mẹ thường kể chuyện những cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, rất thủy chung.

Như đã nói ở trên, tác giả Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của nhiều những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về chiều rộng của không gian và địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên trên một số đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của một mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và là vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng nơi ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu kỳ và thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, cùng những các sự tích như “núi vọng phu”, hay là “hòn Trống Mái”.

Một lần nữa tác giả cũng như một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích nơi thánh Gióng nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân. Đó cũng là truyền thống yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung một kết cấu. Mỗi dòng thơ cũng đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng với điệp từ “góp”.

Ta có thể chia đoạn thơ đọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả theo tương quan về đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, đó là lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng, và xót thương. Trái lại, nửa sau là từ  “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy những sắc màu muôn hình muôn vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này chính là bài ca ca đã ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên đất nước đã có huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là nhiều một tên gọi, đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và đằng sau những huyền thoại là cuộc đời của những con người. Nhân dân ta đã làm nên đất nước, đó là những cặp vợ chồng thủy chung, cũng là những anh hùng, những người lính quyết tử cho tổ quốc quyết sinh, những người học trò nghèo nghiền bút, là ông Đốc, ông Trang, bà Đen, và bà Điểm… Hơn thế nữa, khi nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, con gà.. và trong lòng nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ngưỡng mộ, tôn thờ, đã được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” nơi phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là như thế, đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: và góp sức chung lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam của ta. Nhà thơ sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, và gợi sự kiên trì, bền bỉ, với ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: đã góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân đã góp sức, với góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, và góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta mới có được như một đất nước hữu hình – đất nước của những vị anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm cũng có nhắc đến những địa danh không tên. Có người đã từng nói là “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh là vô cùng quan trọng, và không thể làm tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi nên núi sông hùng vĩ, và địa linh nhân kiệt.

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm đã không đi theo hướng đó, nơi ông lại diễn tả sự sinh sôi của các địa danh đó cũng là vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, và có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của nhiều nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều đã giúp người đọc thấy được với sự kỳ diệu của thế hệ trước. Nó giống như một bông vàng đã chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hy sinh để làm nên tác phẩm kỳ diệu là nhân dân chúng ta.

Nếu như tám dòng thơ trước là tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm của trí thức.

Trước hết ta đến với hai câu thơ sau:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Được viết liền mạch theo lối vắt dòng và diễn tả bằng những lối phủ định để khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang hình thức tranh luận và để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn của nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đến đâu ta cũng thấy” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, bộc lộ có cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân.

Tác giả nhấn mạnh ở cụm từ là “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử dân tộc, bốn nghìn lớp cha ông đều chiến đấu, và đời cha đi trước, đời con đi sau, cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập tự do dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là câu thơ vô cùng ấn tượng: “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…” bởi có sự chuyển đổi đó. Những câu thơ trước đó mỗi dòng đều có từ mười ba đến khi  mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn một trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, và một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được kết thúc bởi hai thanh bằng và  như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ như một những phút lặng của long người trước những xáo trộn của nhiều những tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật đầy hàm súc.

Cuộc đời của những con người ấy tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, và gửi những cái hùng vĩ vô hạn, vĩnh hằng bất biến. Đây chính là sự biến đổi nơi phi thường khẳng định nhân ta thật kỳ diệu! Họ chẳng những khi hóa thân để làm nên hình hài đất nước mà còn làm nên được linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng và không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, Nguyễn Trãi chính là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, và nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là sự tiếp nối nhiều của các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang đậm màu sắc lịch sử nhất trong khi toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:

“Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước”

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Nếu như Nguyễn Trãi đã nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận vào  lịch sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu và nhấn mạnh vào những con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy là bốn ngàn những lớp người Việt Nam ra trận, là bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, và lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu quân hành đó. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của nhiều người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, cùng nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của khi những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Họ đã làm ra Đất Nước bằng chính là những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Họ truyền cho nhau ngọn lửa đã mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ khi thời vua Hùng cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho các thế hệ sau với mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của cả đất nước, của dân tộc là: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, tên làng và truyền thống chống thù trong và giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, đã từ trong trái tim của mỗi con người yêu văn chương đã vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông ở trong bài thơ “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên đang viết tiếp thay cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân đã viết lên  trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của nhiều dân tộc Việt Nam thì đó là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta. Cũng như vậy, ta lại nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ là “Dáng đứng Việt Nam” của Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên tì súng trên xác trực thăng

Và Anh chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vồng.

Chợt thấy anh, giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân Anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhưng lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho riêng

Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại cái dáng-đứng-Việt-Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sỹ Giải phóng quân.

Tên Anh đã thành tên đất nước

Ôi anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của Anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”

Không một dòng địa chỉ nào cũng chẳng có một tấm hình trước lúc lên đường nhưng những con người ấy vẫn nguyện bước chân ra đi để bảo vệ đất đai xứ sở nguyện ngã xuống “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Hay như triết gia người Đức – Engels cũng đã từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ đã sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, là điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này là Đất Nước của nhiều Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, nơi tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, và đẹp đẽ của văn hóa, với văn học dân gian mà tiêu biểu là ca dao, và vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, dân ca, có truyện cổ là: Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại và những câu thơ hai vế song song là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà là cũng thật độc đáo. Nền văn hóa của Đất Nước Việt Nam là nền văn hóa của người Nhân dân, do Nhân dân sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, nơi ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, và đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.

Nhà thơ đã vận dụng vốn ca dao, khiến cho dân ca một cách sáng tạo: không lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và là hình ảnh của ca dao, vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng đã lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó đã khẳng định: Con người Việt Nam say đắm trong tình yêu.

Thành công nghệ thuật của đoạn thơ này chính là sự vận dụng và những yếu tố dân gian kết hợp với cách diễn đạt tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, nơi văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, và không gian nghệ thuật riêng là: vừa có sự bình dị, gần gũi, hiện thực, lại vừa bay bổng, và mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua cách cảm nhận và nơi cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng đến cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích Đất Nước, chúng ta cũng phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa những chính luận với trữ tình, với giữa suy tưởng với cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ đầy bình dị, gần gũi, nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp chất trí tuệ hài hòa với và chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” đã để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta có thể thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, nơi lịch sử hay văn hoá, “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ là do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã chưng cất, và lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của khi những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ có với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của những dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ 2 chữ “Đất nước” luôn luôn được viết hoa 1 cách trang trọng, ta lặp đi lặp lại tựa như 1 nốt chủ âm trong bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và  là tinh thần tự hào dân tộc, cùng trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ được viết theo lối trường ca, kể lể, khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong nhiều tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số nhà thơ tiêu biểu của văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời là  “Đất nước” cũng xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy nhiêu thời nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu đất nước có giá trị cho đến ngày hôm nay.

Tham khảo thêm: