Phân tích 9 câu đầu Đất Nước – Nguyễn Khoa Điềm

0

Phân tích 9 câu đầu Đất nước (phân tích đất nước đoạn 1)- Đất nước là đoạn trích thuộc chương V của bản trường ca trong Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước vừa là một trong những ý niệm thiêng liêng vừa là một hiện hữu. Thông qua tác phẩm, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã diễn tả một hình ảnh Đất nước giản dị gần gũi nhất, với sự thân thương nhất của mỗi con người Việt Nam trong quá khứ cũng như hiện tại. Sau đây là mẫu dàn ý 9 câu đầu bài Đất nước đã được ngắn gọn, cảm nhận 9 câu đầu bài Đất nước cũng đã giúp các em nắm được cách viết mở bài Đất Nước 9 câu đầu cũng như là kết bài 9 câu đầu Đất Nước sao cho thật hay và ấn tượng giúp đạt kết quả cao trong các kì thi sắp tới.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích 9 câu đầu Đất Nước

a) Mở bài phân tích 9 câu đầu Đất Nước:

– Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, trong trường ca Mặt đường khát vọng và ở trong chương Đất nước.

– Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành trong thời kỳ kháng chiến chống Mỹ với phong cách thơ mang đậm chất trữ tình, lãng mạn chính luận.

– “Đất Nước” được trích từ trong chương V, trường ca Mặt đường khát vọng, sáng tác trong thời kỳ chiến trường khu vực Miền Nam vô cùng ác liệt. “Đất Nước” ra đời với mục đích khơi gợi tình yêu nước thẳm sâu, đã kêu gọi giới trẻ miền Nam hòa mình vào cuộc chiến của dân tộc.

b) Thân bài phân tích 9 câu đầu Đất Nước:

– Luận điểm 1: Đất nước đã có từ bao giờ?

  • Câu thơ đầu tiên là câu trả lời cho câu hỏi ấy: “Khi ta lớn lên Đất Nước cũng đã có rồi” Đất Nước là những thứ thân thuộc, gần gũi, và đã gắn bó với mỗi con người, ở trong mỗi con người từ khi phôi thai cũng đã thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân Dân”
  • Tác giả cảm nhận được đất nước bằng chiều sâu văn hóa – lịch sử và cuộc sống đời thường của chính mỗi con người qua cụm từ “ngày xửa ngày xưa” à gợi những bài học về đạo lý làm người qua những các câu chuyện cổ tích thấm đượm nghĩa tình. 

– Luận điểm 2: Quá trình hình thành lên đất nước?

  • Bắt đầu với những phong tục ăn trầu gợi về hình ảnh người bà thân thuộc, gợi câu chuyện về sự tích trầu cau, đã nhắn nhủ nghĩa tình anh em sâu đậm, tình cảm vợ chồng nhân nghĩa thủy chung của những người yêu đất nước.
  • Hình ảnh “cây tre” cũng còn gợi lên hình ảnh của con người Việt Nam, cần cù, siêng năng, chịu thương và chịu khó. “Lớn lên” nghĩa là nói quá trình trưởng thành của Đất Nước, khi nói lớn lên trong chiến tranh nghĩa là nói truyền thống chống giặc kiên cường, rất bền bỉ.
  • Tập quán bới tóc sau đầu cũng để chú tâm làm việc, với câu gợi câu ca dao bình trị dạt dào thương nhớ. Nhắc nhở về tình cảm vợ chồng sắt son và rất sâu nặng qua hình ảnh: “gừng cay”, “muối mặn”.
  • Tái hiện nền văn hóa nước ta chỉ bằng một trong những câu thơ đơn sơ nhưng đầy dụng ý: “Hạt gạo cũng phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng”. Nghệ thuật liệt kê, cùng đã cách ngắt nhịp liên tục thể hiện truyền thống lao động cần cù, với cách ăn cách ở trong sinh hoạt.
  • Nguyễn Khoa Điềm đã thâu tóm tất cả bằng một tư tưởng duy nhất: “Đất Nước có từ ngày đó…”. Dấu “…” cuối câu cũng chính là biện pháp tu từ im lặng, lời dẫu hết những ý vẫn còn, vẫn nung nấu và sục sôi.

⇒ Đất nước được hình thành lên và gắn liền với văn hóa, lối sống, phong tục tập quán của người Việt Nam, khi gắn liền với đời sống gia đình. Những gì làm nên Đất Nước cũng đã kết tinh thành những linh hồn dân tộc. Đất Nước vì thế hiện lên vừa thiêng liêng, khi tôn kính lại gần gũi thiết tha.

c) Kết bài phân tích 9 câu đầu Đất Nước:

Giọng thơ trữ tình chính luận, khi căng, khi tha thiết, khi lại cuồn cuộn nỗi niềm, đã thể hiện được tinh thần với chủ đạo của bài thơ thông qua các chất liệu văn hóa, văn học dân gian là: “Đất Nước của nhân dân”. Vì vậy, đoạn thơ cũng không chỉ trữ tình mà đầy sức chiến đấu.

2. Bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu Đất Nước

Phân tích 9 câu đầu Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 1)

Bài văn mẫu số 1 phân tích đất nước 9 câu đầu (phân tích đất nước đoạn 1) đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Đất nước là một trong những đề tài muôn thuở gắn với sự thành công của nhiều cây bút trong các thời kỳ, nhất là thời kì kháng chiến. Ta không sao quên được hình ảnh đất nước hóa thân vào trong “mảnh hồn quê Kinh Bắc”, đất nước đã bị dày xéo dưới chân của bọn giặc ngoại xâm trong khung cảnh thơ của Hoàng Cầm hay hình ảnh một đất nước nhỏ bé, với đau thương mà anh hùng, bất khuất “Rũ bùn đứng dậy sáng lòa” trong thơ của tác giả Nguyễn Đình Thi. Đến với Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm, lại có khám phá mới về đất nước của ca dao, thần thoại khi đoạn trích Đất nước nằm trong chương năm của bản trường ca Mặt đường khát vọng. Với hình tượng trung tâm là đất nước, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã cho độc giả thấy được nhiều những tư tưởng mới mẻ của mình trong hành trình lí giải về cội nguồn mà đất nước mà đặc biệt là trong chín câu thơ đầu bài:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nới lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Đất nước chính là nguồn cảm hứng vô tận cho thơ ca, hình tượng đất nước luôn có một vị trí đặc biệt, là hình tượng cao quý, với ẹp đẽ nhất trong thơ văn. Macxen Prust: “Một cuộc thám hiểm không phải là ở chỗ cần một vùng đất mới mà ở chỗ cần một đôi mắt mới”. Bởi thế mà cũng với mỗi một điểm nhìn khác nhau thì đất nước lại có một vẻ đẹp, hình dáng khác, hiện lên đất nước hiện lên với muôn hình vạn trạng trong con mắt nhà thơ. Nếu như các nhà thơ cùng thời chọn điểm nhìn cùng cảm hứng về đất nước từ lịch sử đã thông qua các triều đại như:

Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc

Nguyễn Du viết Kiều đất nước hóa thành văn

Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc

Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sóng Bạch Đằng

Hay những hình ảnh vô cùng mỹ lệ, đẹp đẽ:

Đẹp vô cùng tổ quốc ta ơi

Rừng cọ đồi chè đồng xanh ngào ngạt

Nắng sông Lô hò ô tiếng hát

Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca

Thì Nguyễn Khoa Điềm lại chọn cho bản thân mình một điểm nhìn vô cùng mới mẻ, bình dị, thân quen mà qua đó đất nước cũng đã hiện lên không kém phần tươi đẹp.

Với cấu trúc tổng phân hợp mang đậm phong cách chính luận, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những suy tư cùng với những cảm xúc mãnh liệt về đất nước và trách nhiệm của mỗi người đối với quê hương và tổ quốc.

Mở đầu bài thơ, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đưa ta vào câu chuyện về sự hình thành của Đất nước mà cũng đã theo đó Đất nước có từ những gì quen thuộc, gần gũi nhất.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Câu thơ được mở đầu tự nhiên như một lời kể, nhà thơ mượn kí ức tuổi thơ để hình dung ra sự tồn tại của chính Đất nước trong nhận thức với chính tình cảm con người. Theo đó, “Đất Nước đã có từ rất lâu, từ khi mà “ta” cất lên tiếng khóc chào đời, lớn lên thì đất nước đã có và tồn tại cùng với chính “ta”. “Ta” ở đây phải chăng là anh, là chị, là những con người còn sống hay đã chết, là ta của quá khứ hay của tương lai, là cái chung của người dân tộc. Năm chữ “Đất Nước đã có rồi” vang lên đầy tự hào, khi nó giống như một lời khẳng định về nhiều sự trường tồn của đất nước qua hàng ngàn năm lịch sử đã dựng nước và giữ nước của nhân dân ta đã được Nguyễn Trãi đã nhắc đến:

Như nước Đại Việt ta từ trước

Vốn xưng nền văn hiến đã lâu.

Đến hai câu tiếp theo, Nguyễn Khoa Điềm diễn tả cụ thể sự hình thành của Đất nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Truy tìm về nơi cội nguồn của đất nước, khó có ai có thể xác định rõ ràng, minh bạch về sự khởi thuỷ của những hình tượng này. Với Nguyễn Khoa Điềm thì Đất nước cũng được hình thành từ những nét sống giản dị nhất của người mẹ và chính người bà. Sau trạng từ chỉ thời gian”ngày xửa ngày xưa”, khiến người đọc đã hình dung ra biết bao kỉ niệm về tuổi thơ cùng với những nhân vật như ông bụt, bà tiên, cô Tấm, Thánh Gióng… Từ những câu chuyện đó với hình ảnh Đất nước hiện lên thật đẹp đẽ, thơ mộng. Hình ảnh “miếng trầu bà ăn” gợi cho mỗi người đọc về truyền thống tốt đẹp của dân tộc khi hình ảnh “miếng trầu” gắn liền với nét đẹp của những người phụ nữ Việt xưa. Từ nét đẹp đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã lý giải về sự “bắt đầu” của Đất nước. Trong cúng lễ, “miếng trầu quả cau” với biểu tượng cho tấm lòng thành của con cháu gửi đến khi những bậc cha ông. “Miếng trầu” còn là biểu tượng của phẩm của sự chất thuỷ chung trong cốt cách con người Việt Nam xưa và nay và bên cạnh đó, hình ảnh “miếng trầu”còn gợi lên một huyền sử của tình yêu”miếng trầu nên dâu nhà người”. Từ “lớn lên” chỉ sự trưởng thành với khi của đất nước qua quá trình đấu tranh khiến dựng nước và giữ nước của dân tộc ta. Với Nguyễn Khoa Điềm hay bất kì những  nhà thơ nào, đất nước không hề vô tri vô giác mà đất nước có dáng, có hồn, vẻ đẹp ngất ngây trong con mắt nghệ thuật. Hình ảnh “trồng tre mà đánh giặc” với sự gợi cho ta về truyền thuyết một cậu bé mới ba tuổi đã biết cất tiếng khi nói trách nhiệm với quê hương, cho chính tổ quốc đó là Thánh Gióng, một biểu tượng cho cốt cách con người Việt, kiên cường, đúng nên mạnh mẽ trong đấu tranh chống lại cái ác. Hình tượng đó đã được nhà thơ Tố Hữu đưa vào thơ của mình:

Ta thuở xưa như thần Phù Đổng

Vụt đứng lên đánh đuổi giặc Ân

Sức nhân dân khoẻ như ngựa sắt

Chí căm thù ta rèn thép thành roi

Lửa chiến đấu ta phun vào mặt

Lũ sát nhân cướp nước hại nòi.

Hình ảnh cây tre đại diện cho cốt cách ngay thẳng không chịu  bất khuất của con người Việt Nam:

Tre xanh xanh tự bao giờ

Chuyện ngày xưa đã có bờ tre xanh

Thân gầy guộc, lá mong manh

Mà sao nên luỹ nên thành tre ơi.

Nguyễn Khoa Điềm cũng đã đem hình tượng cây tre và Thánh Gióng song hành với nhau. Đó là sự đồng hiện trong cốt cách, một phẩm chất của con người Việt Nam như thật thà, chất phát, đôn hậu thuỷ chung, khi yêu hoà bình nhưng lại vô cùng kiên cường trong chiến đấu.

Đến bốn câu thơ tiếp theo, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm ca ngợi những truyền thống, vẻ đẹp thuần phong mỹ tục của chính con người Việt:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Có phải chăng hình tượng của người mẹ và người phụ nữ với búi tóc sau đầu đã làm sáng tỏ sự kín đáo, rất nhẹ nhàng mà chân chất trong cách ăn mặc của con người Việt Nam. Nét đẹp của những người phụ nữ ấy khiến ta liên tưởng đến câu thơ:

Tóc ngang lưng vừa chừng em búi

Để chi dài bối rối lòng anh

Vẻ đẹp của con người Việt còn ở khi chính phẩm chất thuỷ chung trong cốt cách của mình. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” được vận dụng sự vô cùng độc đáo, nhẹ nhàng mà thấm đẫm với câu thơ. Gừng thì tất nhiên phải cay, cả muối tất nhiên phải mặn, đó là nguyên lý của chính tạo hoá cũng như tình cảm của những người vợ chồng luôn đong đầy và với sự không lay chuyển. Nó gợi lên ân tình thuỷ chung giữa người với người là:“Gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn.” con người ở với nhau càng lâu thì sẽ càng tình cảm càng đong đầy. Ý câu thơ được lấy ra từ chính câu ca dao:

Tay bưng đĩa muối chén gừng

Gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau

“Cái kèo, cái cột thành tên” gợi lên cho ta nhớ đến tục làm nhà cổ của người Việt xưa. Ngôi nhà là nơi mọi người trong gia đình đoàn tụ, mang đến những sự ấm áp, hạnh phúc.. Có lẽ bởi vậy mà tục đặt tên cho con là “kèo”, là “cột” ra đời, khi vừa giản dị lại gần gũi và cũng tránh được sự dòm ngó của ma quỷ theo quan niệm xưa.

Không những vậy, khi con người Việt Nam còn mang trong mình phẩm chất cần cù, chăm chỉ. Thành ngữ “một nắng hai sương” chỉ những sự chịu thương chịu khó của ông cha ta trong lao động. Các động từ “xay”, “giã” và “dần”, “sàng” là các công đoạn làm ra hạt gạo, qua đó tác giả Nguyễn Khoa Điềm muốn nhắc người đọc cần phải biết trân trọng những hạt cơm ta đã  ăn hằng ngày vì đó là vào mồ hôi công sức của những người nông dân:

Ai ơi bưng bát cơm đầy

Dẻo thơm một hạt đắng cay muôn phần

Câu thơ cuối cùng chính là một lời khẳng định của Nguyễn Khoa Điềm về cội nguồn của Đất nước:

Đất Nước có từ ngày đó…

“Ngày đó” là cái ngày mà ta có truyền thống, đã có văn hoá. Vậy nên, muốn yêu nước thì trước hết ta phải yêu văn hoá, với truyền thống của dân tộc mình. Thật đáng trân quý, nâng niu biết bao lời thơ dung dị, sự nhẹ nhàng mà chân thành, đằm thắm của Nguyễn Khoa Điềm.

Thành công của đoạn thơ với sự trên là nhờ vào việc vận dụng đặc sắc, khéo léo các thi liệu dân gian, cùng những phong tục, truyền thống, thành ngữ, điệp từ và cách viết hoa chữ Đất nước để thể hiện sự thành kính, thiêng liêng. Tất cả đã làm nên một đoạn thơ đậm chất với nền văn hoá người Việt và sự thành kính đối với đất nước. Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cả những lời thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lý.

Đoạn trích trên cũng đã thể hiện được những suy tư cùng những cảm xúc mãnh liệt của tác giả về quê hương và đất nước. Qua đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã nói lên trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với tổ quốc cùng Pautopxki từng nói: “Niềm vui của nhà thơ chân chính là những niềm vui của người mở đường đến với cái đẹp.” Và phải chăng tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã tìm thấy riêng con đường của mình khi tiến đến đất nước, để rồi khi  Đất nước hiện ra thật bình dị, gần gũi và đẹp đẽ biết bao. Đọc đoạn trích Đất nước ta được khám phá chính một vẻ đẹp mới của đất nước mà qua đó bản thân ta nâng cao thêm tinh thần yêu đất nước, yêu tổ quốc và trách nhiệm của chúng ta bây giờ không chỉ là học tập mà còn là gìn giữ truyền thống, gìn giữ đất nước, và góp phần làm cho đất nước giàu đẹp hơn.

Phân tích 9 câu đầu Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 2)

Bài phân tích 9 câu thơ đầu bài đất nước (phân tích đất nước đoạn 1) hay do học sinh trường chuyên làm đạt điểm 9+ trong bài kiểm tra 45 phút để các bạn tham khảo:

Cảm hứng về đất nước, về với tầm vóc đáng tự hào của nó là một cảm hứng vốn quen thuộc của thơ ca hiện đại giai đoạn từ năm 1945 đến năm 1975. Bất cứ ai cũng nhận ra rằng từ sau khi Cách mạng tháng Tám, dân tộc, với tổ quốc đã thực sự lớn mạnh của Thánh Gióng. Đó chính là những hiện thực, là tiền đề thẩm mỹ cất cánh dành cho những dòng cảm xúc đáng trân trọng về vóc dáng của chính con người Việt Nam, với đất nước Việt Nam. Là một nhà thơ trẻ, khi trưởng thành trong thời kì chống Mĩ cứu nước, cũng nặng tình với non sông, người trí thức Nguyễn Khoa Điềm cũng đã góp riêng một tiếng nói của mình để khẳng định lên sự lớn dậy ấy. Với 9 câu thơ ở phần mở đầu bài thơ “Đất nước” trích trường ca “Mặt đường khát vọng”, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã có những cảm nhận mới mẻ về cả đất nước.

Điểm rất mới của tác giả Nguyễn Khoa Điềm là đề cập đến một đề tài rất khái quát, nếu không muốn nói là trừu tượng, đề tài đất nước, với nhưng những hình ảnh thơ, chất liệu cụ để dựng nên tầm vóc đó lại rất cụ thể và gần gũi. Để nói lên sự hiện hữu của đất nước này ở nhiều chiều sâu của thời gian, khi chiều rộng của không gian, trong đoạn mở đầu, nơi ông đã tập trung sử dụng rất nhiều hình ảnh hết sức cụ thể, gần gũi và đầy thân thương nhưng lại có sức liên tưởng mãnh liệt và tính chất khái quát cao. Đặc biệt, ông nối kết để tạo nên mạch thơ đã nói về sự hiện hữu của đất nước bằng điệp từ có. Điệp từ này đã nối kết với những hình ảnh tưởng chẳng liên quan gì với nhau thành một khối không thể tách rời, khi khẳng định sự hiện hữu vừa có tính truyền thống vừa đầy những ân tình sâu nặng của đất nước như một nét riêng không thể hòa lẫn. Ta hãy nghe nhà thơ bộc lộ với nhiều suy nghĩ của mình.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất nước có từ ngày đó…

Đọc đoạn thơ, ta thấy không thế không chú ý đến những hình ảnh thơ đầy sức tưởng tượng của những tác giả về sự hiện hữu của mỗi đất nước. Mỗi hình ảnh lại gợi lên một sự hiện hữu nhằm khẳng định nét riêng với sự không trộn lẫn của đất nước này. “Ngày xửa ngày xưa” với một ngôn ngữ mở đầu cho những câu chuyện cổ tích; khi hình ảnh người bà – nhà thơ muốn nói rằng đất nước này cũng đã tồn tại từ lâu đời, khi tồn tại từ thuở “Mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”, ở cái thuở Nam quốc sơn hà. Từ đó, đất nước lớn lên với những phong tục, khi cốt cách của một dân tộc đậm tình, đậm nghĩa nhưng cũng sẵn sàng xả thân cho đến khi Tổ quốc lâm nguy. Thân thương gần gũi biết bao khi đất nước hiện hữu vừa thật nhỏ nhoi, cũng lại vừa thật tình cảm nơi miếng trầu bây giờ bà ăn. Ở đây, sức liên tưởng thật sáng tạo, với đầy ắp những nét đẹp về phong tục, tập quán,  và bản sắc quê hương:

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Ở đó, có những bàn tay, với những trái tim, những con người cần cù chịu thương chịu khó, lam lũ cần cù, khi một nắng hai sương. Đặc biệt ở đó, có sự tồn tụ hiện hữu có những khi phải được đánh đổi bằng máu xương, mồ hôi, và cả nước mắt của cả một dân tộc luôn cần phải rũ bùn và  đứng dậy tự khẳng định mình.

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất nước có từ ngày đó…

Cũng trong đoạn thơ trên, ngoài hình ảnh là việc sử dụng những từ xưng hô tạo một quan hệ tình cảm đầy tình nghĩa máu thịt của cộng đồng người Việt. Dường như với cách gọi này, cùng với tất cả như những quây quần, hội tụ, đoàn kết, châu tuần chung một dòng máu, thành một huyết thống Rồng – Tiên. Đó là từ mẹ, từ cha, từ bà, từ chính dân mình quá đỗi ngọt ngào trong những cách xưng hô đằm thắm, mang dẩy nhiều những bản sắc Việt Nam ấy. Chúng tạo nên một phong vị, cả một sức gợi đầy thẩm mĩ về Đất Nước, cả con người Việt Nam, thân ái, thủy chung, giàu truyền thống, giàu tình nghĩa, đạo lý làm người. Ở đoạn hai, tác giả lại ngẫm nghĩ, chiêm nghiệm về nhiều những điều đã tạo nên đất nước, hướng người đọc đến những định nghĩa rất riêng và rất chung về đất nước.

Có thể khẳng định rằng, với sức mạnh của đoạn thơ là do có rất nhiều hình ảnh, phong phú, đa dạng. Tất cả lại được diễn tả với nhiều hơn một giọng thơ hết sức tự nhiên, không ồn ào của nhiều hình thức thơ văn xuôi, thơ tự do khiến cho hiệu quả thẩm mỹ càng lớn. Điều đáng nói là từ chính những hình ảnh đó, với sức suy tưởng lo lắng của một trí thức trẻ khả năng gợi mở, và vang ngân, liên tưởng của thơ càng lớn. Nó đủ sức để khái quát một cách đầy đủ tầm vóc, cùng với thế đứng, dáng đứng của một Đất Nước trong chiều hơi hướng ấy thật trầm lắng, đáng tự hào về chiều sâu lịch sử, chiều dài của thời đại. Đó là một khối thống nhất của quá khứ, hiện tại và cả về tương lai. Một vẻ đẹp nói như tac giả Tố Hữu:

Ta đứng dây mắt nhìn bốn hướng

Trông lại nghìn xưa trông tới mai sau

Trông Bắc trông Nam trông cả địa cầu.

Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi mà dân ta biết trồng tre đánh giặc, biết tròng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, búi tóc, biết sống yêu thương, sự thủy chung. Lịch sử Đất Nước thật giản dị, gần gũi mà xa xôi, còn linh thiêng biết mấy. Đoạn trích Đất Nước của trường ca Mặt đường khát vọng xứng cũng đáng là một khúc ca sử thi, hoành tráng đầy chất thơ về quê hương, và cả đất nước và con người Việt Nam.

Phân tích 9 câu đầu Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 3)

Bài văn mẫu phân tích 9 câu đầu bài đất nước (phân tích đất nước đoạn 1) do butbi tổng hợp được. Bài phân tích này được các thầy/ cô giáo đánh giá khá cao phù hợp để các bạn tham khảo:

Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm chính là trong những cây bút tiêu biểu của thế hệ nhà thơ trẻ trong những năm tháng trường kì vất vả chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn đọc giả bởi sự kết hợp chính giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sâu lắng của người trí thức về đất nước và với con người Việt Nam.Nổi lên cho phong cách sáng tác của ông là khi “Trường ca Mặt đường khát vọng”, được ông sáng tác ở chiến khu Trị Thiên 1971, in xuất bản lần đầu vào năm 1974, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ đô thị vùng tạm đã chiếm miền Nam về trách nhiệm với non sông đất nước và sứ mệnh thế hệ mình , hơn chính cả là hòa mình với cuộc đấu tranh chống Mỹ xâm lược. Đoạn trích bài thơ “Đất nước” nằm ở phần đầu của chương V của tường ca 9 câu thơ mở đầu của đoạn trích chính là 9 câu thơ nói lên quan điểm của nhà thơ mà Nguyễn Khoa Điềm về đất nước.

Với 9 câu thơ đầu tác giả cũng đã thể hiện quan điểm mới mẻ của mình về cội nguồn của đất nước.

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó…

Mở đầu trong chính đoạn trích, tác giả đã muốn khẳng định “khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi” khi chẳng biết là đất nước hình thành và có từ bao giờ, chỉ biết là khi ta lớn lên thì đất nước cũng đã có ở đây rồi. Đó chính là lời khẳng định chắc chắn về một sự trường tồn của đất nước.

Sau khẳng định chắc nịch về với sự tồn tại của đất nước, tác giả dần dần vén màn cho ta thấy rõ hơn về chính nguồn gốc của đất nước:

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa …” mẹ thường hay kể.

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Dòng thơ “ngày xửa ngày xưa” cũng là mở đầu cho từng một câu chuyện cổ tích mà các bà, các mẹ hay kể chuyện cho các con các cháu nghe. Cũng chẳng biết từ khi nào, chỉ biết là từ là những “ngày xửa ngày xưa” hình thành đất nước cũng đã có rồi. Những câu chuyện cổ tích truyền thuyết đã ra đời là từ đất nước.

Đất Nước hiện diện lên trong truyện cổ trong đó là hình ảnh Đất Nước của một nền văn học dân gian đặc sắc với những câu chuyện của cổ tích, thần thoại và truyền thuyết. Với nhà thơ, hai từ “đất nước” còn đã bắt đầu với miếng trầu bà ăn. Người xưa cũng thường xuyên nói “miếng trầu là đầu câu chuyện”, đó hẳn chính là bởi vì tục ăn trầu là một trong những phong tục cũng lâu đời của Việt Nam ta.

Hình ảnh của “miếng trầu” và cả cũng như là hình ảnh của sự khởi đầu. Đất Nước đã có từ khi dân mình cũng có tục ăn trầu và tục ăn trầu của nhân dân cũng là khởi đầu cho một đất nước, của cả khởi đầu cho một nền văn hiến.

Bắt đầu của chính một sự sống và những bước trưởng thành của sự sống đó. Sau sự bắt đầu của một Đất Nước  là sự trưởng thành của cả một dân tộc:

Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre để mà đánh giặc

Từ những năm tháng khi trước công nguyên, từ thời của hai Bà Trưng, Bà Triệu, là lần đầu tiên của chính nước ta mạnh mẽ đứng lên khởi nghĩa đánh đuổi giặc ngoại xâm lược. Từ những câu chuyện truyền thuyết Thánh Gióng với nhiều hình ảnh nhổ cả luỹ tre dơ cao đánh đuổi giặc.

Cây tre cũng chính là hình ảnh biểu tượng của người nông dân Việt Nam, hiền lành, thật thà chăm chỉ và thật chất phác nhưng cũng rất kiên cường bất khuất. Từ hình những ảnh thực tế, khi cho đến đời sống tinh thần, đó là từng bước đi lên trưởng thành của một dân tộc, khi của một đất nước con người . Ý thức được về đất nước, về với sự tồn tại của đất nước và ý thức về việc phải có trách nghiệm cao bảo vệ lãnh thổ, với bảo vệ bờ cõi đất nước.

Tiếp theo đó là những hình ảnh mang đậm chất vẻ đẹp thuần phong mỹ tục giản dị của con người Việt Nam :

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đầu tiên đó cũng chính là vẻ đẹp thật giản dị của chính người phụ nữ Việt Nam. Vẻ đẹp của một người bà, người mẹ và người chị, của một người con gái mộc mạc Việt Nam, tuy giản dị nhưng lại nữ tình, thuần hậu rất riêng biệt. Thành ngữ “gừng cay muối mặn” đã vận dụng một cách hết sức là tự nhiên nhưng cũng là hết sức đặc sắc, nhẹ nhàng mà thật thấm đượm ân tình con người , gợi lên sự thuỷ chung ở trong con người như những câu nói “gừng càng già càng cay, muối càng lâu càng mặn, con người sống với nhau lâu năm thì tình nghĩa ta sẽ đong đầy”.

Rồi đến câu thơ tiếp là “Cái kèo cái cột thành tên”, gợi nhắc cho người đọc nhớ đến tục làm nhà cổ của nhiều người Việt ngày xưa . Nhà được làm bằng cách sử dụng kèo cột giằng giữ vào nhau đã làm cho nhà thêm vững chãi, bền chặt tránh được mưa gió, thú dữ. Đó cũng chính là ngôi nhà tổ ấm cho mọi gia đình cũng có thể đoàn tụ bên nhau; siêng năng tích góp mỡ máu dồn khi thành sự sống phát triển đất nước.

Và cả truyền thống cần cù và lao động động , chịu thương chịu khó miệt mài của dân tộc ta nữa là “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay giã dần sàng”. Câu thành ngữ “Một nắng hai sương” gợi đã tạo nên sự cần cù chăm chỉ của cha ông ta những ngày long đong cần cù và lận đận trong khi đời sống nông nghiệp lạc hậu.

Đó chính là truyền thống lao động cần cù, với sự miệt mài chịu thương chịu khó. Các động từ như “Xay – giã – dần – sàng” và đó  chính là quy trình sản xuất ra hạt gạo. Để làm ra được hạt gạo, những người nông dân phải trải qua biết bao nắng sương vất vả gieo cấy và xay giã và giần sàng. Thấm vào trong hạt gạo bé nhỏ ấy là mồ hôi vị mặn nhọc nhằn đó của chính giai cấp nông dân vất vả nắng mưa.

Và sau tất cả, tác giả Nguyễn Khoa Điềm cũng đã chốt lại “Đất Nước có từ ngày đó … “. “Ngày đó” là ngày nào, chúng ta không hề biết, khi tác giả cũng không thể biết. Chỉ biết rằng ngày đó chính là ngày mà ta bắt đầu có truyền thống, có những phong tục tập quán, có nhiều văn hoá. Đó là ngày ta có cả Đất nước của dân tộc Việt Nam.

Bằng việc vận dụng khéo léo và thật sự mềm mại các chất liệu văn hóa dân gian như phong tục ăn trầu, tục búi lệ tóc, cả truyền thống đánh giặc ngoại xâm, truyền thống làm nông nghiệp và các câu ca dao, nhiều câu tục ngữ cùng các thành ngữ… Ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, cả những lời thơ nhẹ nhàng đúng giọng thủ thỉ tâm tình nhưng vẫn mang đậm hồn thơ triết lí thơ ca Việt Nam.

Điệp ngữ Đất Nước được nhắc lại rất nhiều lần cũng như chính  việc nhà thơ luôn luôn viết hoa hai từ Đất Nước cũng tạo nên sự thành kính vô cùng thiêng liêng… Tất cả đã làm nên cả một đoạn thơ đậm đà không gian văn hóa người Việt anh dũng.

Qua đoạn thơ trên nhà thơ cũng đã mang đến cho người đọc vẻ đẹp của một Đất Nước giàu văn hóa giàu chất cổ truyền. Đất Nước của truyền thống, của những phong tục tươi đẹp mang đậm dấu ấn của tư tưởng Đất Nước của con người và của nhân dân.

Bài văn mẫu Phân tích 9 câu đầu Đất Nước do butbi.hocmai.vn tổng hợp sẽ giúp cho các bạn thấy được tác giả đã miêu tả nguồn cội của chính đất nước được hiện lên rất đỗi bình dị và thật thân thương qua những câu chuyện ngày xưa mẹ kể và miếng trầu bà ăn. Trong bài viết này đã chia sẻ tổng hợp mẫu bài phân tích 9 câu đầu bài thơ Đất Nước và cảm nhận 9 câu đầu bài Đất Nước hay nhất để cho các bạn học sinh có thêm tư liệu ôn tập môn Ngữ văn.

Tham khảo thêm: