Dàn ý phân tích Đất Nước đoạn 3 và bài văn mẫu tham khảo

0

Thông qua bài phân tích Đất Nước đoạn 3, ta có thể thay thế hệ trẻ chính là tương lai tươi sáng của Đất Nước. Những mỗi một thế hệ tương lai được kỳ vọng, gánh trên vai trọng trách là phát triển đất nước. Với trí tuệ và tầm vóc của người trẻ, Đất nước chắc chắn sẽ có nhiều những triển vọng tươi sáng. Đó cũng chính trách nhiệm chung của bất cứ mỗi một người con đất Việt nào trong sự nghiệp xây dựng lên Đất Nước.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Nguyễn Khoa Điềm là nhờ văn và nhà thơ có nhiều đóng góp lớn cho nền văn học nước nhà thời kỳ kháng chiến chống thực dân Mỹ. Nổi bật nhất trong số các tác phẩm của tác giả phải kể đến là Đất Nước. Phân tích đất nước đoạn 3 để thấy được ngòi bút vô cùng sắc bén và thắm đượm trữ tình của Nguyễn Khoa Điềm.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích Đất Nước đoạn 3

a) Mở bài phân tích Đất Nước đoạn 3

– Sơ lược về nền văn học trong những năm 1945-1975, cùng với đó giới thiệu tác phẩm.

b) Thân bài phân tích Đất Nước đoạn 3

*Đất Nước đã có từ bao giờ?

– Đất Nước đã ra đời từ rất lâu, gắn liền với những truyền thuyết, với những câu chuyện cổ tích đã có từ ngày xưa.

– Gợi ra những truyền thống thật tốt đẹp của dân tộc từ những câu chuyện cổ tích, được dựa truyền thuyết.

  • Sự tích Trầu Cau, và khơi gợi lại truyền thống tốt đẹp của dân tộc Việt Nam, ấy là những tình nghĩa anh em sâu đậm, và tình nghĩa vợ chồng son sắt thủy chung, gợi lại những cái phong tục đẹp của người dân ta đấy là tục ăn trầu nhuộm răng.
  • Truyền thuyết Thánh Gióng cũng vô cùng quen thuộc, gợi nhắc về truyền thống yêu nước, và bất khuất đứng lên chống giặc ngoại xâm của dân tộc.

– Đất Nước đã có từ rất lâu đời, bắt đầu từ những thuần phong mỹ tục của cha ông ta.

  • “Tóc mẹ thì bới sau đầu”, nhắc đến người đọc nhớ lại phong tục búi tóc thành búi tóc tròn, thấp sau gáy của các bà và các mẹ thời xưa.
  • “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”, chính là những đại diện cho truyền thống coi trọng những tình nghĩa vợ chồng.
  • Đất Nước có từ rất lâu đời được và hình thành cùng với tiến trình phát triển của con người Việt Nam trong mỗi cuộc sống đời thường biết làm nhà, biết trồng lúa, cấy cây…

*Đất nước là gì?

– Về với không gian địa lý, Đất Nước là nơi con người sinh sống, hò hẹn “là nơi anh đến trường” và “nơi em tắm”,… là không gian gần gũi thật sự thân thiết. Nhưng Đất Nước cũng đã lại mang dáng vẻ kỳ vĩ lớn lao như những “núi bạc”’và “biển khơi” là nơi nhân dân tìm về sau những ngày tháng xa quê hương đất nước.

– Về thời gian lịch sử:

  • Quá khứ đó cũng là một Đất Nước thiêng liêng và lớn lao, khi đó tác giả gợi nhắc về giống nòi cao quý của dân tộc ta, vốn là những con rồng cháu tiên. Đồng thời còn gợi nhắc về những truyền thống hào hùng dựng nước và gìn giữ nước của cha ông.
  • Trong hiện tại, nơi Đất Nước hiện lên một cách gần gũi và thân thuộc, hiện diện ở trong mỗi con người, đã bao gồm ngôn ngữ để con người giao tiếp tư duy, bao gồm cả những phong tục tập quán tốt đẹp vẫn sẽ  tồn tại trong từng nếp sống.
  • Trong tương lai đó là một Đất Nước với rất nhiều  triển vọng tươi sáng, những thế hệ tương lai được kỳ vọng, đã được đặt lên vai cái trách nhiệm lớn lên cả về trí tuệ lẫn tầm vóc, để làm nên những điều kỳ diệu cho cả dân tộc của cả Đất Nước.

*Tư tưởng Đất Nước của nhân dân nước ta:

– Trên phương diện không gian và địa lý:

– Cảm nhận Đất Nước đã qua những địa danh thắng cảnh nổi tiếng của Việt Nam bằng nhắc tên chúng một cách dày đặc trong những từng ý thơ, gửi gắm niềm tự hào của tác giả đối với miền quê hương, đất nước.

– Gợi nhắc những truyền thống thật sự tốt đẹp của dân tộc.

– Nhấn mạnh việc đất nước của chúng ta là một dải non sông nối liền, từ đó đã gợi lên ý chí thống nhất Tổ quốc, Nam Bắc chung một nhà của nhân dân ta.

– Biểu tượng cho vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam, đó là đức tính thủy chung son sắt trong tình cảm vợ chồng, cũng là ý chí quyết tâm chống giặc ngoại xâm của dân tộc Việt Nam, đã nhắc lại thuở xây dựng nước thiêng liêng và hào hùng, rồi sau cùng còn gợi lại cả truyền thống hiếu học của nhân dân ta, đặc biệt là cả những điều giản dị nhất như con cóc và con gà cũng làm nên thắng cảnh cho quê hương.

=> Khẳng định một cách mạnh thật mẽ tư tưởng Đất Nước của nhân dân bởi Đất Nước là do nhân dân cùng góp công, rất nhiều công góp sức làm nên của Nguyễn Khoa Điềm.

* Phương diện thời gian và lịch sử nước ta:

– Suốt 4000 năm lịch sử, nơi nhân dân luôn đứng dậy đấu tranh bảo vệ Tổ quốc, “không ai nhớ mặt đặt tên” nhưng họ cũng chính là những người làm ra Đất Nước.

– Nhân dân không chỉ là người xây dựng, bảo vệ Đất Nước mà nhân dân còn là người làm nhiệm vụ vô cùng thiêng liêng ấy lại là truyền lại cho thế hệ tiếp nối những giá trị văn hóa vật chất và tinh thần của nhân dân.

* Trên bình diện văn hóa:

– Tác giả cũng đã chọn ra ba câu ca dao tiêu biểu để gợi ra 3 vẻ đẹp tâm hồn của người Việt Nam, cũng chính là 3 nét đẹp văn hóa rất tiêu biểu” của dân tộc Việt đã nói chung.

– “Yêu em từ thuở trong nôi/Em nằm em khóc anh ngồi anh ru”, đó là nét đẹp say đắm nhất trong tình yêu, biết yêu thương những con người ở nơi xung quanh mình.

– “Cầm vàng mà lội qua sông/Vàng rơi không tiếc, tiếc công cầm vàng”,  và từ đó có thể thấy được vẻ đẹp của lòng biết quý trọng tình nghĩa hơn là giá trị vật chất tầm thường.

-“Thù này ắt hẳn còn lâu/Trồng tre thành gậy gặp đâu đánh què”, gợi ra một vẻ đẹp bền bỉ trong đấu tranh chống giặc ngoại xâm của nhân dân ta từ bao nhiêu đời nay.

c) Kết bài phân tích Đất Nước đoạn 3

– Tổng kết giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ Đất Nước của tá giả Nguyễn Khoa Điềm .

2. Bài văn mẫu phân tích Đất Nước đoạn 3

Bài phân tích Đất Nước đoạn 3 của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 1)

Tham khảo bài phân tích đoạn 3 Đất Nước hay đạt điểm 9+:

Từ xưa cho đến nay viết về đất nước luôn là nguồn mạch cảm hứng chủ đạo của những nền văn học. Tiếp tục mạch nguồn của văn học dân tộc, tác giả Nguyễn Khoa Điềm một gương mặt nổi bật của nền văn học kháng chiến chống Mỹ đã có những quan điểm hết sức mới mẻ về đất nước mộng mơ. Quan điểm đó đã được ông thể đã hiện đầy đủ nhất qua đoạn trích Đất nước thuộc trường ca Mặt đường đầy khát vọng.

Đất nước đối với mỗi người là cả một ý niệm khác nhau. Đối với nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm cũng vậy, bằng sự cảm mến của mình, sự phân tích bằng tư duy logic, và lần lượt từng lớp của khái niệm đất nước đã được ông dần dần lật mở ra. Ông không định nghĩa bằng khái niệm quá mông lung, trừu tượng mà đi từ những điều hết sức cụ thể trong chính của cuộc sống:

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa” mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre mà đánh giặc

Qua khái niệm của tác giả, hình ảnh Đất Nước hiện lên thật bình dị, đất nước có từ những câu chuyện cổ tích, từ miếng trầu, và từ truyền thuyết thánh Gióng trồng tre đánh tan lũ quân xâm lược Ân. Đất Nước ta có từ ngày đó, đã thấm nhuần trong lòng mỗi đứa trẻ từ thuở bé.

Không chỉ vật mà  Đất Nước còn được hình thành từ thuần phong mỹ tục, từ những nét văn hóa, truyền thống đẹp đẽ của cả dân tộc ta. Hình ảnh “Tóc mẹ thì bới sau đầu” đã cho thấy nét đẹp trong sinh hoạt văn hóa đã được bảo lưu từ ngàn đời của ông cha ta là vậy . Dù một nghìn năm Bắc thuộc, nếu bị phương Bắc tìm mọi cách Hán hóa ấy vậy nhưng không có cách nào xóa được những cái vốn văn hóa đẹp đẽ của dân tộc ta. Đất Nước cũng được từ hình thành từ lối sống giàu tình nghĩa, thủy chung mà khởi nguồn chính là mối quan hệ nên vợ chồng: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Ở đây Nguyễn Khoa Điềm có nhiều sự vận dụng hết sực thuần thục ca dao là: “Tay nâng đĩa muối chấm gừng/ Gừng cay muối mặn, xin đừng quên nhau” để cho thấy Đất Nước đã được hình thành từ những điều tưởng như giản dị mà hết sức thiêng liêng và cao quý.

Tiếp tục mạch cảm hứng đó, tác giả Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục chiết tự về khái niệm Đất Nước:

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất nước là nơi em đã đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm

Đất Nước không còn xa lạ mà chính là không gian sinh tồn, gần gũi với đời sống sinh hoạt của tất cả mỗi chúng ta. Nguyễn Khoa Điềm đã không hoa mỹ, và không ngần ngại mà làm sáng tỏ nó là nơi đến trường, nơi tắm, nơi hò hẹn ,và nơi nhớ nhung. Vâng, Đất Nước chính là vậy được hình thành từ những điều dung dị nhất của cuộc sống. Và để đó làm sâu sắc thêm khái niệm, ông đã truy nguyên nguồn gốc từ và quá khứ: “Đất Nước là nơi dân mình đoàn tụ/ Đất là nơi chim về/ Nước là nơi rồng ở/ Lạc Long Quân và Âu Cơ/ Đẻ đồng bào chúng ta trong bọc trứng”. Từ sự lý giải sâu sắc hai phương diện lịch sử và địa lý ông đã dần dần tiến tới hoàn chỉnh khái niệm của Đất Nước. Đồng thời từ đó cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi con người đối với cuộc sống đất nước: “Những ai đã khuất/ Những ai bây giờ/ yêu nhau và chỉ sinh con đẻ cái/ Gánh vác phần những người đi trước để lại/ Dặn dò con cháu việc mai sau/ Hằng năm ăn đâu làm đâu/ Cũng biết cúi đầu nhớ đến ngày giỗ tổ”. Hai từ “gánh vác” đã khẳng định rằng  trách nhiệm của thế hệ mai sau đối với công cuộc dựng nước và giữ nước. Đồng thời đó ông cũng lên tiếng nhắc nhở, dù xây dựng đất nước cũng không còn được quên đi công ơn của người đã dựng xây, kiến tạo nên Đất Nước. Chỉ với hai hay chữ “cúi đầu” cũng đã cho thấy tấm lòng thánh kính thiêng liêng hướng về quê cha, đất tổ đã sinh ra và lớn lên.

“Trong anh  em hôm nay/…/Đất Nước vẹn tròn to lớn”, đoạn thơ đã được khẳng định, Đất Nước được tồn tại và vững bền là bởi sự đoàn kết của tất cả mọi người, là sự yêu thương của đôi lứa. Chỉ khi có sự hòa hợp giữa cái chung  cái riêng, giữa cá nhân và tập thể thì khi ấy mới có đất nước vẹn tròn  to lớn. Và từ đó ông cũng nêu lên trách nhiệm của mỗi cá nhân cũng như toàn bộ thế hệ trẻ đối với đất nước là : “Em ơi em đất nước là máu xương của mình/ Phải biết gắn bó và san sẻ/ Phải biết hóa thân cho dáng hình xứ sở/ Làm nên đất nước muôn đời” bởi vì:

Những người vợ nhớ chồng còn đóng góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Những người dân nào đã góp nên những Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm

Hàng loạt địa danh, danh lam thắng cảnh được ông gọi tên. Mỗi địa danh ấy cũng  gắn liền với một chiến tích, với một sự hy sinh thầm lặng để làm nên đất nước muôn đời sáng. Cũng bởi vậy, đã khiến ông rút ra một kết luận: “Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi/…/Những cuộc đời đã hóa núi sông của ta”.

Để làm nên đất nước luôn chắc chắn không thể là một cá nhân có thể kiến tạo của nền văn hóa, truyền thống, lịch sử dân tộc. Vậy đó là ai, là tất cả những người nào?

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Quả đúng, đó  chính là một người vô danh, họ là những người con gái con trai, họ“đã sống chết” “giản dị và bình tâm” họ đã mang tên làng tên xã, mang lại phong tục tập quán truyền lại, bảo lưu cho thế hệ mai sau. Chính họ là những người cũng  đã làm nên Đất nước. Với biện pháp liệt kê và điệp là “họ” Nguyễn Khoa Điềm đã vẽ ra trước mặt người đọc tầng lớp những con người vô danh nối tiếp nhau từ thế hệ này qua thế hệ khác truyền lại cho con cháu những giá trị vật với chất tinh thần cao quý nhất. Và điều họ hướng đến đó chính là:

Để Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân

Đất nước của Nhân Dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Đến đây Nguyễn Khoa Điềm cũng đã mạnh mẽ khẳng định quan điểm tư tưởng đất nước nhân dân của chính mình. “Trở về với nguồn cội của Đất Nước là trở về với cội nguồn phong phú, đẹp đẽ là văn hóa dân gian” khởi thủy của truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân nước ta. Đồng thời đó cũng là nơi làm nên, vói khơi dậy nên truyền thống văn hóa tốt đẹp của nhân dân ta:

Dạy anh biết “yêu em từ thuở trong nôi”

Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội

Biết trồng tre đợi ngày thành gậy

Đi trả thù mà không sợ dài lâu

Bài thơ kết lại bằng những tiếng hát tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp nơi núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho thấy một niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối sự với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời của cha ông để lại.

Đất Nước là một bài thơ giàu suy tư và triết lý, thể hiện quan niệm rất riêng, rất mới mẻ của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm về Đất Nước. Với bài thơ này, người đọc lại đã được mở mang thêm tri thức, lại có thêm một cách nhìn nhận thật về Đất Nước trong chiều dài lịch sử. Từ đó cũng càng thêm và yêu mến, tự hào với nơi mình đã được sinh ra và lớn lên.

Bài phân tích Đất nước đoạn 3 của Nguyễn Khoa Điềm (mẫu 2)

Mẫu bài phân tích bài thơ Đất Nước đoạn 3 do học sinh trường chuyên trình bày:

Đất nước  là đề tài muôn thuở trong thi ca và nghệ thuật, là điểm hẹn tâm hồn của biết bao văn của nghệ sĩ. Trong những năm tháng chiến tranh oai nghiệt, tình yêu đối với đất nước lại càng được tỏa sáng và rực cháy trong lòng mỗi của người dân Việt Nam. Đoạn trích “Đất nước” của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm được sáng tác trong bối cảnh ấy.

Khi nhắc đến văn chương ở thời kỳ kháng chiến chống Mỹ cứu nước, chúng ta biết những nhà thơ trong thời kỳ này như là Xuân Quỳnh, Phạm Tiến Duật… họ viết về hào khí của cả một dân tộc:

“Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước

mà lòng phơi phới dậy tương lai.”

Một trong những số những nhà thơ tiêu biểu nhất của văn chương Việt Nam ngày ấy phải kể đến một nhà thơ đã trưởng thành ở trong cuộc kháng chiến trường kỳ nhưng nhất định thắng lợi của dân tộc  đó chính là Nguyễn Khoa Điềm.

Khi nói đến nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, từ một trong tiềm thức của mỗi người yêu văn chương đã đều không thể quên phong cách thơ ông là phong cách thơ trữ tình trong chính luận. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lôi cuốn được người đọc bởi xúc cảm lắng đọng, giàu chất suy tư, và thể hiện tâm tư của người trí thức tham gia tích cực vào những cuộc chiến đấu của nhân dân. Một trong những kiệt tác đó của Nguyễn Khoa Điềm phải kể đến những đoạn trích “Đất nước” thuộc chương V của “Trường ca với mặt đường khát vọng” được tác giả hoàn thành ở nơi chiến khu Trị – Thiên năm 1971, và in lần đầu năm 1974.

Tác phẩm đã được xây dựng thành công tư tưởng “Đất nước là của nhân dân”, do nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời những trên cả 3 bình diện: chiều rộng của không gian địa lý chiều dài của lịch sử  chiều sâu văn hóa. Nhà thơ như đứng trước hàng trăm câu hỏi “Đất nước này là do ai làm ra, sẽ do ai  đẻ bảo vệ và gìn giữ muôn đời?” Để trả lời cho những câu hỏi ấy đã làm Nguyễn Khoa Điềm ngược dòng cảm xúc của mình để đi tìm về cội nguồn của đất nước của mình.

Khi nói đến những vẻ đẹp của đất nước trên bình diện của nhiều chiều sâu văn hóa, ta phải hiểu văn hóa là những giá trị mà ở đó con người ở một vùng đất tạo ra. Có thể đó là giá trị tinh thần có thể là giá trị phi vật thể. Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận người Việt Nam không chỉ ra đưa đi để bảo vệ đất đai xứ sở mà còn truyền và còn bảo vệ cho nhau những hạt giống dân ta, với những vẻ đẹp mang đậm cốt cách của con người Việt Nam được truyền từ đời này sang đời khác, và từ trái tim của người giàu sang lồng ngực của người trẻ, đó là vẻ đẹp mang đậm bản sắc dân tộc của Việt Nam ta. Đất Nước bắt đầu từ một những cách trang trọng mà hết sức bình dị, gần gũi:

Cấu trúc câu là “Đất nước có – bắt đầu – lớn lên” đã hữu hình hóa quá trình phát triển của đất nước trong trường kì lịch sử đó đất nước tựa như một sinh mệnh sống với một nội lực mãnh liệt. Nghệ thuật liệt kê là những biện pháp chủ đạo quán xuyến toàn bộ bài thơ, góp phần khắc họa đất nước bình dị, và gần gũi. Đất nước gắn liền với bà, với mẹ, với cha, nơi đất nước hài hòa trong mối quan hệ gia đình, tình làng xóm. Đất nước cùng là một phần máu thịt trong kí ức của mỗi con người được sinh ra.

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa…” mẹ thường hay kể”

Nhà thơ ngược dòng được cảm xúc của mình về với những cái ngày xửa ngày xưa, đưa ta về miền cổ tích diệu kỳ từ lâu đã trở thành cội nguồn của đời sống, tâm hồn ta, cho ta được những bài học nhân sinh về lẽ sống nhân hậu, sống nghĩa tình, sống yêu thương, và chở che nhau.

“Đất nước bắt đầu bằng miếng trầu bà ăn”

Đó là tục nhuộm răng và tục nhai trầu của người già. Đồng thời đó cũng là câu ca dao tục ngữ là “miếng trầu là đầu câu chuyện” sự tích trầu cau, là vẻ đẹp của người già Việt Nam. Đất Nước là văn hóa kết tinh từ những tâm hồn Việt. Từ truyện ca dao, đến cổ tích đến tục ngữ, “miếng trầu” đã là một hình tượng nghệ thuật mang tính thẩm mĩ, và là hiện thân của tình yêu thương, lòng thủy chung của tâm hồn dân tộc ta. Tiếp đến, nhà thơ như một người hướng dẫn để đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe lại sự tích Thánh Gióng và  nhổ bụi tre ngà đánh tan giặc Ân.

“Đất nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”

Hình ảnh đó dân ta trồng tre đánh giặc không chỉ được lặp lại 1 lần mà còn xuyên suốt 90 câu với thơ hình ảnh này được lặp lại tới ba lần, đó là biểu tượng cho những  truyền thống yêu nước, đánh giặc giữ nước của nhân dân Việt Nam ta. Có thể thấy, từ bao đời nay đã từ truyền thuyết dân gian đến tác phẩm thơ hiện đại, cây tre trở thành biểu tượng cho sức mạnh và tinh thần quật cường đánh giặc cứu nước và giữ nước, biểu tượng phẩm chất tốt đẹp của những người Việt Nam. Từ “lớn lên” được dùng rất chính xác,và rạo rực niềm tin, niềm tự hào dân tộc.

Giọng thơ thật thâm trầm, trang nghiêm làm cho suy từ về cội nguồn Đất Nước giàu chất triết luận mà vẫn thiết tha, và  trữ tình. Cách cảm nhận, nơi  lí giải cội nguồn Đất Nước bằng những hình ảnh bình dị, và thân thuộc đã khẳng định rằng: Đất Nước gần gũi, thân thuộc, bình dị ngay trong đời sống của mỗi người. Câu thơ: “Tóc mẹ thì bới sau đầu” nhắc đến mỗi chúng ta nghe về thứ tập tục làm nên nét riêng của người phụ nữ Việt Nam truyền thống.

Đất nước đã trưởng thành từ những giọt mồ hôi tần tảo dầm mưa dãi nắng. Hạt thóc, hạt gạo thấm mồ hôi, và thấm nhọc nhằn nuôi lớn biết bao thế hệ. Đất nước lớn lên từ trong những gian khổ của cha và từ những lo âu của mẹ: “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay bằng muối mặn”. Đó là chất liệu của ca dao tục ngữ và đó là tình, là nghĩa, là lời thề vàng đá, nơi là lối sống thủy chung, son sắt của những cặp vợ chồng Việt Nam.

Câu thơ “Cái kèo, cái cột thành tên” đã nói đến tục đặt tên con xấu cho dễ nuôi. Thủ pháp nghệ thuật liệt kê trong những câu thơ thứ tám “Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng” chỉ ra những bước và để tạo ra hạt gạo – một đất nước có nền văn minh lúa nước, luôn luôn bảo vệ hạt giống, cốt cách con người Việt Nam. Những vẻ đẹp do cha mẹ truyền đã cho con tiếng nói, thầy cô truyền cho học trò chữ viết, ông cha truyền lại cho con và cháu lối sống và nếp nghĩ thông qua ca dao tục ngữ.

Và chính nhân dân là những người thật đã truyền lại những vẻ đẹp của đất nước, những nét đẹp văn hóa người Việt Nam. Dần dần tác giả đã nhận ra: “Đất Nước có từ ngày đó…”, ta không biết ngày đó sẽ là ngày nào chỉ biết đó là từ rất xưa, rất xa. Chỉ biết rằng đất nước cũng có từ lúc những huyền thoại, truyền thuyết, và từ lúc dân tộc hình thành phong tục tập quán, đến những từ lúc dân Việt mình không tiếc máu xương để giữ từng tấc đất và thiêng liêng và dùng bàn tay lao động để xây dựng nên đất nước.

“Ngày đó” vừa là trạng từ cùng chỉ thời gian trong quá khứ vừa là một phép thế đại từ. Vậy là Đất Nước đã có từ khi mẹ thường kể chuyện cổ tích cho con nghe, khi dân ta biết trồng tre để đánh giặc, biết trồng ra hạt lúa, củ khoai, biết ăn trầu, biết sống yêu thương, thủy chung.

Như đã nói ở trên, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm là một nhà thơ trưởng thành từ quân đội, đó là một trong những nhà thơ đã xẻ dọc chiều dài của những mảnh đất hình tia chớp. Trước hết, khi nói về một chiều rộng của không gian địa lý ta phải hiểu địa lý là tất cả những yếu tố về mặt tự nhiên sẽ trên một đơn vị diện tích lãnh thổ đất nước. Là một nhà thơ đã đi hết chiều dài của một mảnh đất hình chữ S, ông hiểu từng đại danh và là vùng đất trên lãnh thổ Việt Nam.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước Những núi Vọng Phu

….

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”

Ấn tượng lúc ban đầu của chúng ta khi đọc tám câu thơ là ta như bị chìm ngập trong không gian cổ tích diệu là kỳ thần thoại. Cả đoạn thơ là kho truyện cổ, với các sự tích như “núi vọng phu”, hay “hòn Trống Mái” nơi ấy.

Một lần nữa tác giả như là  một người hướng dẫn viên du lịch đưa ta trở về làng Phù Đổng nghe sự tích thánh Gióng nhổ bụi tre và ngà đánh tan giặc Ân. Đó là truyền thống của sự yêu nước của nhân dân ta. Mỗi một dòng thơ tùy độ dài ngắn khác nhau nhưng đều có chung kết cấu. Mỗi dòng thơ  đã đều chia ra hai phần và liên kết với nhau bằng như điệp từ “góp”.

Ta có thể chia đoạn thơ đọc theo từ “góp” sẽ được hai nửa diễn tả đến theo tương quan đối lập. Nửa trước nói về nhân dân, và lời thơ mộc mạc, bình dị, cảm xúc, có pha chút ngại ngùng và xót thương. Trái lại, nửa sau của từ “góp” lại nói về đất nước, lời thơ lộng lẫy với những sắc màu muôn hình vạn trạng. Nghệ thuật tương phản này cũng chính là bài ca ca ngợi sự hi sinh của nhân dân để tạo nên cho đất nước huy hoàng. Đằng sau mỗi địa danh là một tên gọi, là đằng sau mỗi tên gọi là một huyền thoại và sau những huyền thoại cuộc đời của những con người. Nhân dân đã làm nên đất nước, đó chính là những cặp vợ chồng thủy chung,  những anh hùng, những người lính quyết tử cho một tổ quốc quyết sinh, là những người học trò nghèo nghiền bút, ông Đốc, ông Trang, bà Đen, bà Điểm… và Hơn thế nữa, nhân dân còn là những cái tên bé nhỏ vô danh được ẩn dụ bằng những hình ảnh con cóc, hay con gà.. Trong điều nhân dân còn có những nhân vật mà chỉ nhắc đến ta đã thấy hùng vĩ thiêng liêng, ;à ngưỡng mộ, tôn thờ, được ẩn dụ bằng hình ảnh “Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương” là  phúc quanh núi Hy Cương hay “Những con rồng nằm im góp cho dòng sông xanh thẳm”. Nhân dân ta đa dạng là thế, là đông đảo là vậy mà chỉ làm một việc chung và thống nhất: góp sức chung để lòng để xây dựng nên đất nước Việt Nam ta. Nhà thơ cũng sử dụng điệp từ “góp” thật ấn tượng, và gợi sự kiên trì, bền bỉ, ý chí thống nhất, tình đoàn kết trăm người chung một việc: cùng đó góp phần kiến tạo nên không gian huy hoàng cho nhân dân. Nhân dân sau đã góp sức, góp sự đoàn kết và góp cả máu xương, cả tính mạng, góp tên tuổi, và góp tài hoa. Nhờ đó mà thế hệ chúng ta cũng mới có được một đất nước hữu hình và đất nước của những anh hùng.

Nguyễn Khoa Điềm có đến nhắc đến những địa danh không tên. Có những người đã từng nói “đất hoang là đất không tên”. Việc đặt tên cho một địa danh chính là vô cùng quan trọng, không thể làm điều tùy tiện. Có không ít những địa danh đã soi bóng trong những câu thơ ca dân tộc nhằm ca ngợi núi sông hùng vĩ, địa linh nhân kiệt đó.

Nhưng Nguyễn Khoa Điềm cũng không đi theo hướng đó, ông lại diễn tả sự sinh sôi của những địa danh đó vì ở đó có lòng chung thủy, sự gắn bó, có máu xương, có tài hoa, có tên tuổi, và có linh hồn của nhân dân. Đây là kết quả của sự hi sinh bền bỉ to lớn của một nhân dân. Có thể nói, tám câu thơ đều giúp người đọc thấy được sự kỳ diệu của thế hệ như trước. Nó giống như một bông vàng đã chói lọi mà tổ quốc gọi công cho nhân dân – người đã hy sinh để làm nên được tác phẩm kỳ diệu là nhân dân ta.

Nếu như thế tám dòng thơ trước tưng bừng những màu sắc lấp lánh, hình tượng đầy chất thơ thì bốn câu thơ sau lại là cảm xúc chứa đựng đầy suy ngẫm của lối nói chính luận xen lẫn sự trầm ngâm đi của một trí thức.

Trước hết ta đến với hai câu thơ sau:

“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha”

Được viết liền mạch và theo lối vắt dòng và diễn tả bằng lối phủ định để được khẳng định. Nó giống như một tuyên ngôn sôi nổi mang một hình thức tranh luận để khẳng định mạnh mẽ những hi sinh to lớn  nhân dân. Tiếp đến, câu thơ thứ ba là: “Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy là” sử dụng thán từ “Ôi” – một câu cảm thán. Nhà thơ như không giấu nổi lòng mình, đã bộc lộ cảm xúc nghẹn ngào trước những hi sinh vĩ đại của nhân dân vĩ đại.

Tác giả cũng nhấn mạnh ở cụm từ “bốn nghìn năm” – đó là chiều dài lịch sử của dân tộc, bốn nghìn lớp của cha ông đều chiến đấu, đời cha đi trước, đời con đi sau, và cha con đều là những đồng chí đồng đội chiến đấu vì độc lập của dân tộc. Kết thúc đoạn thơ là một câu thơ vô cùng ấn tượng đó là : “Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…” bởi có sự chuyển đổi đi. Những câu thơ đó trước mỗi dòng đều có từ mười ba đến mười lăm âm tiết nhưng ở câu thơ cuối lại chỉ vỏn vẹn ở trong tám âm tiết. Đó như một sự trầm ngâm, và một sự đúc kết để rút ra chân lý cô đọng. Bên cạnh đó, nó còn được coi kết thúc bởi hai thanh bằng như một lời hạ giọng để suy tư in dấu vào trong âm hưởng. Dấu ba chấm kết thúc đoạn thơ có như một phút lặng của long người trước những xáo trộn của tâm hồn. Nhưng ấn tượng nhất là câu thơ thật là hàm súc.

Cuộc đời của con người tuy ngắn ngủi hữu hạn là thế nhưng lại hóa thành núi sông ta, gởi những cái hùng vĩ vô hạn, và vĩnh hằng bất biến. Đây chính là những sự biến đổi phi thường khẳng định nhân ta và thật kỳ diệu! Họ chẳng những hóa thân và để làm nên hình hài đất nước mà còn đã làm nên linh hồn đất nước.

Bên cạnh vẻ đẹp chiều rộng và không gian địa lý đất nước còn hiện lên với chiều dài của lịch sử. Như chúng ta đã biết, tác giả Nguyễn Trãi là một nhà sử gia chính thống, là một quan đại thần dưới triều Lê, ông là một nhà chép sử, và nghiên cứu về lịch sử. Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử Việt Nam là những sự tiếp nối của các triều đại, của các đời vua:

“Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập

Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”.

Nhưng ngược lại, nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm không nhìn nhận lịch sử theo lối của một nhà sử gia của chính thống. Đoạn thơ có lẽ mang cũng đậm màu sắc lịch sử nhất trong toàn bộ thi phẩm này ta phải kể đến:

“Em ơi em                 

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn ngàn năm Đất Nước”

Năm tháng nào cũng người người lớp lớp

Con gái, con trai bằng tuổi chúng ta

Cần cù làm lụng

Khi có giặc người con trai ra trận

Người con gái trở về nuôi cái cùng con”

Nếu như nhà thơ Nguyễn Trãi nhìn nhận lịch sử đất nước ta theo lối của một nhà sử gia chính thống thì Nguyễn Khoa Điềm lại nhìn nhận lịch lại sử theo lối gợi mở lịch sử. Ông xoáy sâu nhấn mạnh vào con số “bốn ngàn năm”. Bốn ngàn năm ấy đó là bốn ngàn lớp người Việt Nam ra trận, bốn ngàn thế hệ người Việt Nam ra trận, lớp cha trước lớp con sau cũng thành đồng chí chung câu nói quân hành. Đó là một cuộc chạy đua tiếp sức của những người dân Việt Nam. Nói về lịch sử bốn nghìn năm của đất nước, và nhà thơ không nhắc lại các triều đại, các anh hùng nổi tiếng mà tập trung nhấn mạnh vai trò của vài những con người vô danh:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước.”

Họ đã làm ra Đất Nước bằng những công việc hằng ngày và trong suốt cuộc đời của họ:

“Nhưng họ đã làm ra Đất Nước

Họ giữ và truyền cho ta hạt lúa ta trồng

Họ chuyền lửa qua mỗi nhà, từ hòn than qua con cúi

Họ truyền giọng điệu mình cho con tập nói

Họ gánh theo tên xã, tên làng trong mỗi chuyến di dân

Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái

Có ngoại xâm thì chống ngoại xâm

Có nội thù thì vùng lên đánh bại”

Họ truyền cho nhau những ngọn lửa mang tên sức sống của dân tộc Việt Nam. Họ bảo vệ đất đai xứ sở từ thời vua Hùng và cầm gươm đi mở cõi. Họ đã gìn giữ và truyền lại cho những  thế hệ sau mọi giá trị văn hóa, văn minh tinh thần và vật chất của đất nước, của dân tộc là: hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, ngôn ngữ dân tộc, cả tên xã, và tên làng và truyền thống chống thù trong giặc ngoài. Để rồi khi đọc đến đây, từ trong trái tim của mỗi một người yêu văn chương vọng lại những vần thơ của Hoàng Trung Thông trong bài thơ là “Báng súng”:

“Ta lại viết bài thơ trên báng súng

Con lớn lên đang viết tiếp thay cha

Người đứng dậy viết tiếp người ngã xuống

Ngày hôm nay viết tiếp ngày hôm qua”.

Chính nhân dân cũng đã viết lên những trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam. Bởi vậy, để viết lên trang sử vẻ vang của dân tộc Việt Nam thì đó cũng là máu, là mồ hôi, là nước mắt của nhân dân ta . Cũng như vậy, ta  nhớ đến hình ảnh anh giải phóng quân trong bài thơ “Dáng đứng Việt Nam” của nhà thơ Lê Anh Xuân:

“Anh ngã xuống đường băng Tân Sơn Nhất

Nhưng Anh gượng đứng lên vì tì súng trên xác trực thăng

Và Anh đã chết trong khi đang đứng bắn

Máu Anh phun theo lửa đạn cầu vòng.

Chợt thấy anh và giặc hốt hoảng xin hàng

Có thằng sụp xuống chân anh tránh đạn

Bởi Anh chết rồi nhung lòng dũng cảm

Vẫn đứng đàng hoàng nổ súng tiến công

Anh tên gì hỡi Anh yêu quý

Anh vẫn đứng lặng im như bức thành đồng

Như đôi dép dưới chân Anh giẫm lên bao xác Mỹ

Mà vẫn một màu bình dị, sáng trong

Không một tấm hình, không có một dòng địa chỉ

Anh chẳng để lại gì cho riêng

Anh trước lúc lên đường

Chỉ để lại cái dáng đứng Việt Nam tạc vào thế kỷ:

Anh là chiến sĩ Giải phóng quân.

Tên anh đã thành tên đất nước

Ôi Anh Giải phóng quân!

Từ dáng đứng của anh giữa đường băng Tân Sơn Nhất

Tổ quốc bay lên bát ngát  của mùa xuân”

Không có một dòng địa chỉ, cũng chẳng có một tấm hình trước lúc đi lên đường nhưng những con người ấy đã vẫn nguyện ra đi để bảo vệ đất đai và xứ sở nguyện ngã xuống để “Tổ quốc bay lên bát ngát mùa xuân”.

Hay như triết gia người Đức – Engels đã cũng  từng nói: “Nếu như không có máu, mồ hôi và nước mắt thì sẽ không có lịch sử dân tộc”. Mạch suy nghĩ sâu lắng dẫn đến tư tưởng cốt lõi, và điểm hội tụ và cũng là điểm đỉnh của cảm xúc trữ tình ở cuối đoạn: Đất Nước này cũng là Đất Nước của Nhân dân. Khi thể hiện tư tưởng Đất Nước của Nhân dân, và tác giả đã trở về với ngọn nguồn phong phú, đẹp đẽ văn hóa, và văn học dân gian mà tiêu biểu là những ca dao, vẻ đẹp tinh thần của nhân dân, hơn đâu hết, có thể tìm thấy trong ca dao, và dân ca, truyện cổ là : Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thật thần thoại. Câu thơ hai vế song song cũng là một cách định nghĩa về Đất Nước thật giản dị mà cũng  độc đáo. Nền văn hóa Đất Nước Việt Nam là một nền văn hóa của Nhân dân, do Nhân dân đã sáng tạo nên. Trong nền văn hóa ấy, có ca dao thần thoại luôn chứa đựng cả lịch sử, xã hội, văn hóa của Đất Nước, là có sự đặc biệt là đời sống tâm hồn của nhân dân.

Nhà thơ cũng đã vận dụng vốn ca dao, dân ca một cách sáng tạo: không bị lặp lại nguyên văn mà chỉ sử dụng ý tứ và hình ảnh của ca dao, và vẫn gợi nhớ đến ca dao nhưng lại trở thành một câu thơ, có một ý thơ gắn bó trong mạch chung của toàn bài để từ đó khẳng định là : Con người Việt Nam say đắm tình yêu.

Thành công nghệ thuật của mỗi đoạn thơ này chính là là sự vận dụng những yếu tố dân gian kết hợp với một cách diễn đạt và tư duy hiện đại, tạo ra màu sắc thẩm mỹ vừa quen thuộc lại vừa mới mẻ. Chất liệu văn hóa, và văn học dân gian được sử dụng tối đa đã tạo nên không khí, giọng điệu, là không gian nghệ thuật riêng: vừa có sự bình dị, gần gũi, lại vừa bay bổng, mơ mộng của ca dao, truyền thuyết nhưng lại mới mẻ qua những cách cảm nhận và cách diễn đạt bằng hình thức thơ tự do. Có thể nói rằng chất dân gian đã thấm sâu vào tư tưởng và cảm xúc của tác giả, tạo nên đặc điểm ra nghệ thuật độc đáo của đoạn thơ này.

Qua đoạn trích của  Đất Nước, chúng ta phần nào nhận thấy đặc điểm của phong cách thơ của Nguyễn Khoa Điềm là sự kết hợp giữa chính luận với trữ tình, giữa suy tưởng với những cảm xúc cùng ngôn ngữ thơ bình dị, gần gũi, và nồng hơi thở cuộc sống. Tính chính luận đã làm sáng đẹp nên chất trí tuệ hài hòa với chất trữ tình đậm đà. Đoạn thơ đã “nhịp mãi một tấm lòng sứ điệp” và để ta thêm yêu và tự hào về Đất Nước Việt Nam 4000 năm lịch sử. Qua đó ta thấy, dù ở lĩnh vực địa lý, lịch sử hay văn hoá thì “Đất nước này là của nhân dân”, sẽ do có nhân dân bảo vệ và gìn giữ muôn đời. Nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm đã  từng chưng cất, lắng ủ và lên men trong tiếng thơ của mình, đó là vẻ đẹp duyên dáng nhuần nhị của những thi liệu văn hóa văn học dân gian. Và sự nhất quán trong toàn bộ đoạn thơ với những câu thơ dài ngắn đan xen nhau như với sự tan chảy của dòng cảm xúc, sự miên man của dòng suy tưởng. Xuyên suốt toàn bộ bài thơ hai chữ “Đất nước” đã luôn luôn được viết hoa một cách trang trọng, và lặp đi lặp lại tựa như  một nốt chủ âm trong những bản trường ca về non sông gấm vóc. Nhờ đó, mà tác phẩm đã khơi dậy lòng yêu nước và tinh thần tự hào dân tộc, cùng với trách nhiệm công dân trong mỗi chúng ta. Mặc dù bài thơ đã được viết theo lối trường ca, kể lể, liệt kê, và khó đọc khó nhớ nhưng với những gì Nguyễn Khoa Điềm thể hiện trong khi tác phẩm này ông xứng đáng là một trong số những nhà thơ tiêu biểu của nhiều  văn chương Việt Nam ngày ấy. Đồng thời, “Đất nước” cũng là  xứng đáng trở thành hành trang tinh thần của người yêu văn chương suốt bấy lâu nay về đề tài tình yêu quê hương, tình yêu của  đất nước và có giá trị cho đến ngày hôm nay.

Tham khảo thêm: