Hướng dẫn soạn văn bài: Nghị luận về một bài thơ đoạn thơ – ngữ văn 12 – tập 1.Trả lời các câu hỏi bài tập sách giáo khoa một cách chi tiết ,rõ ràng nhất, qua bài soạn văn này sẽ giúp các bạn nâng cao và củng cố được kiến thức về văn nghị luận.
Tham khảo thêm:
A. Kiến thức cơ bản về nghị luận một bài thơ đoạn thơ:
1. Nghị luận về một bài thơ đoạn thơ được hiểu như thế nào?
Nghị luận về thơ (tác phẩm hoặc một đoạn thơ) là quá trình sử dụng những thao tác làm văn để làm rõ những tư tưởng và phong cách nghệ thuật của thơ từ đó làm tác động tới cảm xúc thẩm mĩ, tư duy nghệ thuật và những liên tưởng sâu sắc của người viết.
2. Cách viết một bài nghị luận về một bài thơ đoạn thơ
a) Các thao tác cần thực hiện:
– Đọc kĩ đoạn thơ, bài thơ, nắm chắc nội dung, mục đích, hoàn cảnh sáng tác, vị trí đoạn thơ, bài thơ.
– Trong đoạn thơ, bài thơ có ngôn ngữ, hình ảnh đặc biệt như thế nào?
– Đoạn thơ, bài thơ thể hiện phong cách nghệ thuật, tư tưởng tình cảm của tác giả ra sao?
b) Cấu trúc bài làm
Khi làm một bài nghị luận về một bài thơ, đoạn thơ thông thường gồm 3 phần:
- Mở bài: Giới thiệu khái quát về cả một bài thơ hay đoạn thơ.
- Thân bài: Nêu ra những giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ, đoạn thơ.
- Kết bài: Đánh giá chung về toàn bài thơ, đoạn thơ.
⇒ Bài nghị luận về một bài thơ hay đoạn thơ cũng có cấu trúc làm bài như các bài nghị luận khác. Nhưng trong phần thân bài, chúng ta cần biết bám sát vào các yếu tố của thơ như: hình ảnh, cảm xúc, nhịp, vần,… để phân tích và từ đó phát hiện ra cảm xúc chủ đạo và sự độc đáo của nhà thơ trong cảm xúc, trong cách miêu tả.
B. Tìm hiểu đề và lập dàn ý cho bài nghị luận
Đề 1:
a) Tìm hiểu đề:
– Hoàn cảnh ra đời: Bài thơ này đã được chủ tịch Hồ Chí Minh sáng tác vào những năm đầy gian khổ của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, tại chiến khu Việt Bắc.
b) Lập dàn ý:
– Mở bài: Giới thiệu đôi nét về chủ tịch Hồ Chí Minh và hoàn cảnh ra đời của tác phẩm.
– Thân bài: phân tích làm nổi bật được những ý lớn dưới đây:
- Vẻ đẹp của núi rừng Việt Bắc đêm trăng: như một bức tranh thủy mặc, yên tĩnh, tĩnh mịch càng làm nổi bật âm thanh của tiếng suối. Ánh trăng, hoa như có sự giao hòa, hòa quyện với nhau.
- Nổi bật trên nền bức tranh thiên nhiên là chân dung của một thi sĩ. Cũng say đắm trước cảnh thiên nhiên đẹp như những thi nhân xưa. Nhưng không chỉ dừng lại ở đó, mối quan tâm chính của thi sĩ trong bài thơ này chính là vận mệnh của quốc gia của dân tộc.
- Bài thơ là sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, giữa những hình ảnh thiên nhiên rất đỗi quen thuộc trong thơ cổ, với một tư tưởng nhà thơ chiến sĩ hết sức hiện đại.
– Kết bài: Sự kết hợp hài hòa giữa tâm hồn của một thi sĩ và một chiến sĩ cách mạng.
Đề 2:
a) Tìm hiểu đề
Khí thế của cuộc kháng chiến được miêu tả lại hết sức mạnh mẽ, hùng tráng. Trong đó được kể đến chính là sức mạnh của đoàn quân trong những đêm hành quân ra trận. Sức mạnh của những người dân quân tham gia mở đường cho xe chạy,…Tất cả những sức mạnh ấy tạo thành một chiến thắng vang dội.
b) Lập dàn ý
– Mở bài: Giới thiệu về xuất xứ và hoàn cảnh ra đời của đoạn thơ.
– Thân bài: miêu tả làm nổi bật 2 ý chính
- 8 câu thơ đầu đã miêu tả khí thế, sức mạnh của quân và dân ta trong cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp xâm lược.
- 4 câu thơ cuối diễn tả khí thế sục sôi và với tin vui chiến thắng từ trăm miền gửi về.
Để làm nổi bật được 2 nội dung chính đó, cần phải có sự kết hợp phân tích nghệ thuật của bài thơ, phân tích được cái cách mà tác giả đã sử dụng những hình ảnh, từ ngữ, cách thức gieo vần, các biện pháp nghệ thuật như cường điệu, so sánh hết sức linh hoạt.
– Kết bài: Khẳng định lại sức mạnh hùng tráng, hào hùng của đoạn thơ.
C. Luyện tập ôn luyện kiến thức
Hãy phân tích đoạn thơ dưới đây trong bài Tràng Giang của Huy Cận:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ: bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời non nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà.”
*Trả lời:
Thơ mới xuất hiện như một dàn đồng ca đa sầu, đa cảm nhưng lại rất”ảo não” nhất là hồn thơ Huy Cận. Nhận xét về thơ của con người này, Xuân Diệu đã từng viết: “Trong thơ Việt Nam nghe bay đâu đây một tiếng địch buồn. Không phải sáo thiên thai, cũng không phải điệu ái tình, càng không phải lời li tao kể chuyện một cái “tôi”, mà ấy chính là một bản ngậm ngùi dài: có phải chăng tiếng đìu hiu của khóm trúc, bông lau; có phải niềm than vãn của bờ sông, bãi cát; có phải mặt trăng cũng đang cảm thương cùng các vì sao?… Thơ Huy Cận đó ư? Ai nhắc lại làm chi những nỗi nhớ tha thiết của ngàn đời, ai động đến cái lớp sầu dưới đáy của hồn nhân thế, những lời than thầm muôn năm trong lòng vạn vật, ai thuật lại mà não nuột đến thế?”
Chẳng cần chờ tới tập Lửa thiêng, chí riêng bài thơ Tràng Giang cũng đủ làm nên hồn thơ “ảo não” của Huy Cận. Và đây chính là khổ thơ sâu lắng, tha thiết nhất trong trường buồn Tràng Giang:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa
Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà
Lớp lớp những tầng mây hợp thành núi mây”
Nếu như trong ba khổ thơ đầu, mang tâm trạng buồn “nỗi buồn của thế hệ, một nỗi buồn mà không tìm được lối ra nên cứ như kéo dài triền miên” (Huy Cận) của thi nhân dàn trải theo cái mênh mông, sự vô định của sông nước, thì tới khổ thơ cuối, tâm trạng ấy đã được lan tỏa trong không gian hoàng hôn của buổi chiều tàn:
“Lớp lớp mây cao đùn núi bạc
Chim nghiêng cánh nhỏ bóng chiều sa”
“Thiên nhiên, vạn vật buồn nhưng có đôi lúc lại bộc lộ vẻ đẹp kì vĩ, lạ lùng”, đó là lời tự bình của tác giả về hai câu thơ này. Thật vậy, không gì vui và rạo rực bằng lúc bình minh, nhưng cũng không gì buồn tan tác bằng buổi chiều tàn, khi “bóng chiều sa”. Nhưng chính lúc ấy, trong thơ của Huy Cận, nơi “Tràng Giang” lại bừng sáng lên vẻ đẹp tráng lệ với “lớp lớp” những tầng mây tạo thành “núi mây” khổng lồ được những vạt nắng chiều chiếu rọi thành “núi bạc”. Đó là cảnh thực, song cùng là một hình ảnh nghệ thuật đẹp tuyệt diệu. Để vẽ nên được hình tượng “núi bạc”, thi nhân phải có một sự cảm nhận vẻ đẹp rất tinh tế, và đó phải là một hồn thơ chứa đựng tình yêu quê hương, đất nước đằm thắm. Hình ảnh “núi bạc” ấy càng sinh động hơn, hùng vĩ hơn được thể hiện qua động từ “đùn”: “Tầng mây trắng hết lớp này đến lớp khác như những búp bông trắng được nở ra trên trời cao, ánh chiều trước khi vụt tắt rạng lên vẻ đẹp” (Huy Cận). Nhà thơ tâm sự: Ông đã học được chữ “đùn” trong bài dịch thơ của Đỗ Phủ:
“Lưng trời sóng gợn lòng sông thẳm
Mặt đất mây đùn cửa ải xa”
Ta thấy rằng trong suốt hành trình Tràng Giang, hình ảnh thi nhân cô đơn trong từng cảnh vật thay đổi nhưng tất cả đều cùng chung một dáng vẻ: trôi nổi, mông lung, lạc loài, vô định: một cành củi khô bập bềnh trên sóng (Củi một cành khô lạc mấy dòng), một đám bèo xanh trôi nổi trên dòng sông (Bèo dạt về đâu hàng nối hàng)… Và tới khổ thơ cuối thì hình ảnh thi nhân, nỗi buồn của thi nhân lại lúc ẩn lúc hiện trong một hình ảnh cô đơn, lạc loài nữa, một hình ảnh rất chi là tội nghiệp. Đó là một cánh chim nhỏ nhoi, cánh chim nặng trĩu chở nặng bóng chiều, nghiêng cánh cố bay về nơi chân trời xa vắng.
Trong thơ ca cổ điển cùng như hiện đại, chỉ riêng cái việc khắc họa hình ảnh một cánh chim lẻ loi đã gợi lên một sự cô đơn, tội nghiệp, gợi lên sự trống vắng, trống trải trong tâm hồn, huống chi trong thơ Huy Cận, đó lại là một cả một cánh chim “nghiêng cánh nhỏ” và đang chở nặng “bóng chiều sa” cứ xa mờ dần mờ dần đối lập với hình ảnh “núi bạc” hùng vĩ trong trời nước bao la. Chính sự tương phản ấy đã khiến cảnh “Tràng Giang” đã mênh mông, xa vắng nay lại càng mênh mông hơn, xa vắng hơn và “Tràng Giang” đã buồn nay lại càng buồn hơn. Chúng ta hãy nghe thêm lời tự bình của tác giả:
“Cánh chim bay liệng tuy gợi lên một chút ấm cúng cho cảnh vật nhưng lại mông lung quá và nỗi buồn đến đây càng thêm da diết trong sự nhớ thương. Nó không đóng khung trong một cảnh sông nước ở trước mặt mà nó mở ra đến chân trời của miền quê xa”.
Hình ảnh cánh chim bay liệng trong buổi hoàng hôn là một hình ảnh ước lệ, tượng trưng trong thơ ca cổ điển. Không gian ấy, cánh chim ấy đã từng là nơi mà biết bao thi nhân xưa đã từng thả những tâm tình tha thiết, thấm thìa vào đó. Và có lẽ đó cũng sẽ còn là nơi để thi nhân muôn đời gửi gắm những nỗi niềm sâu kín. Trong dòng suy nghĩ ấy, lại một lần nữa, những cánh chim lẻ loi, cô đơn, lạc đàn “nghiêng cánh nhỏ” ấy trong Tràng Giang lại gợi cho ta nhớ tới những tâm tư, nỗi buồn bơ vơ, trống trải của một người con xa quê đang cô đơn thả mình vào những mảnh hồn theo “cánh chim mỏi” cố bay về nơi chân trời xa vắng để tìm kiếm một điểm dừng chân:
“Ngàn mai gió cuốn chim hay mỏi”
(Bà Huyện Thanh Quan)
Đó là sự đồng điệu, giao cảm giữa cái hiện đại và cái cổ điển trong thơ của Huy Cận. Cánh chim ấy, “bóng chiều sa” ấy ngoài Huy Cận thì thật khó để tìm trong làng Thơ mới. Và đúng như lời của Hoài Thanh nhận xét:
“Trong nền văn học mới, Huy Cận đã làm một việc hết sức táo bạo đó là: tìm về cảnh xưa, nơi bao người đã sa lầy – tôi muốn nói sa vào khuôn sáo. Người nói cùng ta những nỗi buồn nơi quán chật, đèo cao, những nỗi buồn của sông dài trời rộng, nỗi buồn của người lữ thứ…”.
Hai câu thơ đầu của khổ thơ cuối thật hay biết bao. Nếu như câu thơ “lớp lớp mây cao đùn núi bạc” gợi lên cái cao, cảnh tượng bồng bềnh của cảnh mây trời thì câu thơ tiếp theo lại trĩu xuống theo hình ảnh “bóng chiều sa”. Có lẽ bóng chiều ấy đang chở nặng những tâm tình buồn nhớ da diết của thi nhân nên trong câu thơ mới có chữ “sa” ấy, chứ không phải là “xa”, vì nếu đó là “bóng chiều xa” thì nỗi buồn của thi nhân chỉ đơn thuần là một nỗi buồn man mác trước cảnh vật lúc giao thời, chứ đâu chỉ còn là “nỗi buồn thế hệ, nỗi buồn không tìm được lối ra nên cứ như kéo dài triền miên” của thi nhân. Tâm trạng cô đơn cùng với nỗi “sầu nhân thế” như ngưng đọng và không thể giải tỏa trong không gian của “bóng chiều sa” ấy, và nó còn được thể hiện một cách sâu đậm trong hình ảnh thi nhân một mình đứng lẻ loi giữa vũ trụ bao la, lặng lẽ cảm nhận cái sự vĩnh hằng, cái vô cùng, vô tận của không gian đối lập với kiếp người hữu hạn:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Trong suốt một hành trình “Tràng Giang”, ta luôn bắt gặp những từ láy: “điệp điệp”, “song song”, “đìu hiu”, “lớp lớp”… tựa như một bản nhạc buồn với những âm điệu tha thiết, với những nốt nhạc kết thúc là “dợn dợn”, nó gợi lên muôn nhịp sóng: sóng nước và cả sóng lòng. Từ “Dợn dợn” diễn tả sự rợn ngợp của nhà thơ trước cảnh trời nước mênh mông trong khoảnh khắc hoàng hôn gắn liền với tình quê, cố hương:
“Dừng chân đứng lại, trời, non, nước
Một mảnh tình riêng: ta với ta”
(Qua Đèo Ngang – Bà Huyện Thanh Quan)
hay:
“Quê hương khuất bóng hoàng hôn
Trên sông khói sóng cho buồn lòng ai”
(Hoàng Hạc Lâu – Tản Đà dịch)
Gợi lên từ tứ thơ ấy của nhà thơ Thôi Hiệu, hai câu thơ Đường:
“Lòng quê dợn dợn vời con nước
Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Cũng chính là tấm “tình quê” của Huy Cận. Nhưng đây là lại một tình quê tha thiết hơn, sâu nặng hơn và cũng mãnh liệt hơn rất nhiều, bởi lẽ tấm “tình quê” ấy được toát lên trong một câu thơ vừa mang tính cổ điển, vừa có nét hiện đại: cổ điển ở cảnh xưa: khói sóng, ở kết cấu thơ Đường; hiện đại là ở cách nói trái ngược với ý Thôi Hiệu – một sự cách tân đầy mới mẻ, độc đáo của một hồn thơ đầy “lãng mạn”. Xưa kia, đứng trên lầu Hoàng Hạc, Thôi Hiệu cũng nhìn thấy khói sóng phủ mờ trên sông mà tình quê thổn thức. Nhưng nay Huy Cận đã không cần cái mờ ảo của khói sóng tác động vào thị giác, tri giác nữa và cũng không cần cái se lạnh thấm vào da thịt – không cần những thứ vốn đã gợi buồn (khói sóng) tác động nữa, nhưng “tình quê” của Huy Cận vẫn trào dâng:
“Không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà”
Rõ ràng tâm tình của nhà thơ Huy Cận sâu lắng hơn, mãnh liệt hơn, nó luôn luôn thường trực trong tâm hồn và luôn sẵn sàng tỏa ra, thấm vào vạn vật bất cứ khi nào. Huy Cận có lần tâm sự rằng: cái “nhớ” ở đây không đơn giản là cái nhớ quê hương Hà Tĩnh – nơi chôn nhau cắt rốn, mà “nhớ nhà” ở đây nên hiểu theo nghĩa rộng hơn là nỗi niềm nhớ quê hương, đất nước Việt Nam. ông còn kể: Khi phát xít Đức xâm lược nước Pháp, chiếm đóng Paris, nhà thơ Aragon cảm thấy bản thân lạc loài ngay chính trên quê hương của mình. Đến nay, trước cảnh nhân dân cơ cực, lầm than, sống cuộc đời nô lệ dưới ách thống trị của bọn thực dân Pháp, thi sĩ Huy Cận lại có tâm sự lạc loài ấy. Chính vì thế, Huy Cận đã thốt lên rằng: “Lúc đó tôi buồn hơn Thôi Hiệu đời nhà Đường”. Ân tình của thi sĩ Huy Cận dành cho quê hương, đất nước thật là sâu nặng.
Khổ thơ đó đã khép lại về tứ thơ, nhưng cái tình quê buồn tha thiết, sâu lắng thì như kéo dài mãi, vang vọng mãi theo cái nhịp điệu “dập dềnh như sóng nước Tràng Giang” của hai câu thơ cuối.
Đây là một trong những khổ thơ rất hay: hay ở sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa thơ ca truyền thống với những nét cổ điển của thơ Đường cùng với những nét vẽ hiện đại; hay ở cảm xúc vũ trụ thể hiện ở cảnh đẹp thiên nhiên hùng vĩ, thơ mộng nhưng lại thấm đượm nỗi buồn da diết của thi nhân – “nỗi buồn về sông núi, nỗi buồn về đất nước” (Huy Cận). Nỗi buồn khơi nguồn từ trong tâm ra đến ngoại cảnh, rồi từ ngoại cảnh trở về tim dù lặng lẽ như thế nhưng lại sâu nặng và mãnh liệt vô cùng:
“Một chiếc linh hồn nhỏ
Mang mang thiên cổ sầu”
Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài. Cảm hứng của lời đề tựa ấy bao trùm trong ba khổ thơ đầu, để rồi tất cả đều hội tụ và kết tinh trong khổ thơ cuối – khổ thơ có thể xem như một bài thơ tứ tuyệt, bộc lộ chân thực nhất, sâu đậm nhất về tình yêu quê hương đất nước của tác giả. Và ở một hoàn cảnh khi đất nước bị quân giặc giày xéo, càng yêu quê hương thắm thiết bao nhiêu, thì thi nhân lại càng “ảo não”, càng “buồn” bấy nhiêu.
Ai đó đã từng nói rằng: Thơ đích thực là nâng đỡ lòng người, khơi gợi những gì đẹp đẽ nhất tiềm ẩn nơi tận đáy tâm hồn để vươn tới cái cao cả. Tràng Giang, đặc biệt là khổ thơ cuối đã thực sự khơi dậy trong tâm hồn người đọc một tình yêu thiêng liêng, cao quý – tình yêu đất nước.