Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề | Ngữ văn 10 Kết nối tri thức

0

Bài hướng dẫn Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề Sách giáo khoa Ngữ văn lớp 10 Kết nối tri thức tập một do Butbi biên soạn giúp các bạn học sinh chuẩn bị tiết học sắp tới. Bài viết bao gồm phần trả lời câu hỏi cùng bài tham khảo. Cùng theo dõi ngay sau đây!

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-ngu-van-10-ket-noi-tri-thuc

TOPCLASS10  GIẢI PHÁP HỌC TẬP TOÀN DIỆN DÀNH CHO 2K8

✅ Chuyển cấp nhẹ nhàng, chinh phục mọi bộ SGK - Bứt phá điểm 9,10

✅ Mô hình học tập 4 bước toàn diện: HỌC - LUYỆN - HỎI - KIỂM TRA

✅ Đội ngũ giáo viên luyện thi hàng đầu 16+ năm kinh nghiệm

✅ Dịch vụ hỗ trợ học tập đồng hành xuyên suốt quá trình học tập

Tham khảo thêm bài viết:

I – Tìm hiểu trước khi vào bài học | Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

– Báo cáo nghiên cứu là kiểu văn bản trình bày kết quả nghiên cứu về một vấn đề dựa trên những dữ liệu khách quan, chính xác và đáng tin cậy. Viết báo cáo nghiên cứu là một hoạt động thực hành giúp chúng ta phát triển kỹ năng tìm hiểu, khám phá về đời sống xã hội và tự nhiên (con người, địa điểm, sự kiện, môi trường,…) qua tư liệu thu thập được và trình bày kết quả đã tìm hiểu, khám phá đó.

– Vấn đề được nghiên cứu có thể là một vấn đề đời sống hoặc một vấn đề được gợi ra từ một tác phẩm văn học đã đọc.

– Yêu cầu khi viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề:

  • Nêu được đề tài và vấn đề nghiên cứu đã đặt ra trong báo cáo
  • Trình bày được kết quả của cuộc nghiên cứu thông qua hệ thống các luận điểm sáng rõ với thông tin xác thực.
  • Khai thác được những nguồn tham khảo chính xác, tin cậy, sử dụng các trích dẫn, cước chú và các phương tiện hỗ trợ phù hợp, thể hiện được sự minh bạch trong công việc kế thừa những kết quả nghiên cứu sẵn có.
  • Cuối báo cáo có danh mục tài liệu tham khảo.

II – Trả lời câu hỏi | Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

Câu 1 (Trang 116, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Vấn đề (hay câu hỏi) nghiên cứu của tác giả ở trong bài viết là gì?

Lời giải chi tiết:

Vấn đề (câu hỏi) nghiên cứu của tác giả ở trong bài viết là một số dấu ấn của sử thi Ấn Độ Ra-ma-ya-na ở trong văn hóa Việt Nam.

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-0

Câu 2 (Trang 116, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Để triển khai bài viết, tác giả đã dùng những luận điểm chính nào?

Lời giải chi tiết:

Những luận điểm chính được tác giả dùng để triển khai bài viết là:

– Dấu ấn của sử thi Ra-ma-ya-na ở trong văn học dân gian và văn học viết thời trung đại:

  • Sử thi Tewa Mưno được xem là một phiên bản bản địa của Ra-ma-ya-na
  • Dạ thoa vương – Truyện truyền kỳ ra đời dưới thời nhà Trần là một phiên bản tóm lược của sử thi Ra-ma-ya-na.

– Dấu ấn sử thi Ra-ma-ya-na ở trong nghệ thuật điêu khắc

– Dấu ấn sử thi Ra-ma-ya-na ở trong văn hóa đương đại

Câu 3 (Trang 116, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Tác giả đã sử dụng những loại bằng chứng gì để làm sáng tỏ các luận điểm chính?

Lời giải chi tiết:

– Tác giả sử dụng những dẫn chứng từ các tác phẩm cụ thể trong văn học dân gian Việt Nam: 

  • Sử thi Têwa Mưnô của dân tộc Chăm. Trong sử thi có vay mượn cốt truyện từ Hikayat Dera Mưnô của nước Ma-lai-xi-a (Truyện này lại là dị bản của sử thi Ra-ma-ya-na).
  • Trích lời của nhà nghiên cứu Phan Đăng Nhật, Đinh Gia Khánh về Lĩnh nam chích quái của Trần Thế Pháp.

– Dẫn chứng về các tác phẩm điêu khắc tại Bảo tàng Chăm

– Dẫn chứng ở trong văn hóa đương đại qua 

  • Nghiên cứu của Phan Ngọc
  • Lưu Quang Thuận – Lưu Quang Vũ chuyển thể trở thành tác phẩm chèo Nàng Xi-ta
  • Tập truyện Lời tiên tri của giọt sương (2011) của tác giả Nhật Chiêu: Truyện sử thi cực ngắn là sử thi Nàng Xi-ta (Nhà văn đã trích dẫn một số câu trong tác phẩm)

III – Thực hành viết – Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề

Đề bài: Sau khi đã đọc và tìm hiểu về đoạn trích “Đăm Săn đi bắt Nữ Thần Mặt Trời” và những hiểu biết của bản thân về thể loại sử thi, hãy viết báo cáo nghiên cứu về hình thức biểu diễn sử thi ở trong đời sống của những người dân Ê đê hiện nay.

Lời giải chi tiết:

A. Dàn ý

1. Mở bài: Giới thiệu vấn đề cần phân tích

2. Thân bài

– Khái quát về thể loại sử thi: Người Ê đê gọi sử thi là klei khan (Klei có nghĩa là lời, bài; khan có nghĩa là hát kể). Hát kể klei khan không phải là kiểu hát kể thông thường mà bao gồm cả ý nghĩa ngợi ca.

– Hình thức biểu diễn sử thi của người Ê đê là hình thức hát, hát kể,…

+) Hát kể sử thi là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ lâu đời của cộng đồng người dân tộc Ê đê, tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này sang đời khác.

+) Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu là ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người đã có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng đã có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự áp bức, diệt vong và sự xâm chiếm của các thế lực khác;…

+) Ngôn ngữ diễn xướng của sử thi Ê đê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phần lời và nhạc.

– Sự ảnh hưởng của sử thi tới đời sống người dân Ê đê:

+) Ảnh hưởng tới đời sống văn hóa tinh thần: Người Ê đê thực hiện hát sử thi ở trong cuộc sống hàng ngày và trong lễ nghi, lao động.

+) Sự tôn sùng của người dân tộc Ê đê về sử thi.

3. Kết bài: Khẳng định lại vấn đề

B. Bài viết mẫu

1. Đặt vấn đề

Sử thi Ê đê ra đời ở trong điều kiện xã hội loài người có nhiều biến động lớn về những cuộc di cư lịch sử, đặc biệt là các cuộc chiến tranh giữa các thị tộc, bộ lạc để tranh giành đất sống tại vùng rừng núi Tây Nguyên.

2. Giải quyết vấn đề

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-ngu-van-10-ket-noi-tri-thuc-1

Trong cộng đồng 54 dân tộc anh em tại Việt Nam, đồng bào dân tộc Ê đê xếp thứ 12 với hơn 331.000 người cư trú tập trung chủ yếu tại các tỉnh: Đắk Lắk, phía Nam của tỉnh Gia Lai và miền Tây của hai tỉnh Phú Yên và Khánh Hòa. Người Ê đê gọi sử thi là klei khan (Klei có nghĩa là lời, bài; khan có nghĩa là hát kể). Hát kể klei khan không phải là hát kể thông thường mà gồm ý nghĩa ngợi ca. Thực chất đây là hình thức kể chuyện tổng hợp được thông qua hát kể.

Các tác phẩm sử thi đều phản ánh những quan niệm về vũ trụ với thế giới thần linh có ba tầng rõ rệt gồm: tầng trời, tầng mặt đất và tầng bên dưới mặt đất – Thế giới mà con người và thần linh gần gũi cùng với nhau; phản ánh về xã hội cổ đại của người Ê đê, cuộc sống sinh hoạt của cộng đồng bình đẳng và giàu có; phản ánh quyền lực của gia đình mẫu hệ, đề cao vai trò của người phụ nữ trong việc quản lý và bảo vệ hạnh phúc gia đình.

3. Hình thức hát kể sử thi

Hát kể sử thi là một loại hình sinh hoạt văn hóa dân gian đã có từ rất lâu đời của cộng đồng người Ê đê, nó được tồn tại bằng hình thức truyền miệng từ đời này sang đời khác. Nội dung của hát kể sử thi chủ yếu là ca ngợi các anh hùng dân tộc, tôn vinh những người đã có công tạo lập buôn làng, những người anh hùng đã có công bảo vệ cộng đồng thoát khỏi sự áp bức, diệt vong và sự xâm chiếm của các thế lực khác; đề cao sự mưu trí tài giỏi, sáng tạo, tinh thần đoàn kết, tương trợ lẫn nhau khi khó khăn hoạn nạn, nêu cao chính nghĩa, phản kháng với những điều trái với đạo lý, luật tục; ca ngợi cái đẹp sức mạnh của hình thể lẫn tâm hồn, tình cảm gia đình, tình yêu đôi lứa, mong muốn chinh phục thiên nhiên để có cuộc sống tốt đẹp hơn; miêu tả về cuộc sống sinh hoạt, lao động bình thường, giản dị của buôn làng…

Ngôn ngữ hát kể của sử thi Ê đê là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa phần lời và phần nhạc. Về phần lời, sử thi Ê đê đều thể hiện một kiểu hình thức ngôn ngữ đặc biệt là lời nói vần (klei duê). Trong khi diễn xướng thì người nghệ nhân còn vận dụng các làn điệu dân ca của dân tộc như: Ay ray, kưưt, mmuin… để tạo nhịp điệu vừa có chất thơ vừa có chất nhạc. Trong hình thức ngôn ngữ đó, những câu chữ như một móc xích nối các câu vần lại với nhau. Đây cũng chính là một yếu tố quan trọng khiến nghệ nhân có thể ghi nhớ được cả những tác phẩm dài hàng vạn câu.

Trong sử thi Ê đê thường nhắc nhiều về các cánh rừng bạt ngàn, rõ nét nhất là cảnh buôn làng giàu có cùng các tù trưởng, những người hùng nổi tiếng khắp vùng như  Khing Ju, Đăm Săn,… Trong trí tưởng tượng của người hát kể, những cánh rừng đi săn bắn, bến nước và nơi làm rẫy đều ở hướng đông. Đây là hướng mỗi buổi sáng thức dậy và đi làm rẫy đều nhìn thấy mặt trời ló rạng trên đỉnh núi, họ quan niệm đây là sự sống, là sự sinh sôi, nảy nở khi tiếp nhận được ánh sáng của nữ thần mặt trời mỗi ngày. Ánh mặt trời chính là những điều tốt lành, là sự hy vọng trở thành hiện thực.

Ví dụ, trong sử thi Khing Ju có đoạn kể sau: 

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-1

4. Ảnh hưởng của sử thi đối với người Ê đê.

Trong bất cứ sử thi nào, khi có một nhân vật đi tìm ai và hỏi người nào đó thì trong làng thì sẽ có câu trả lời khéo léo. Đó là: 

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-2

Câu trả lời này khiến người nghe tưởng tượng về ngôi nhà đó đẹp, dài, rộng hơn hẳn so với những ngôi nhà trong buôn mình. Riêng nội thất ở trong nhà, người kể luôn tạo ra những lời kể bằng ngôn ngữ tượng hình. Ví dụ: “Cột nhà trong được chạm trổ rất đẹp, sàn nhà láng bóng. Gian trong cột làm bằng chỉ đỏ, gian ngoài cột làm bằng chỉ vàng”. Những hình ảnh gần như có thực cùng với không gian hiện thực.

Ví dụ: 

soan-bai-viet-bao-cao-nghien-cuu-ve-mot-van-de-3

Hình ảnh này khiến người nghe hình dung ra được những hành động nhẹ nhàng, nhanh nhẹn của Mtao Grư khi đi vào qua các vị trí đặt chiêng, chỗ để của những vật dụng (như kpan, jhưng, thứ tự từ gian ngoài đi vào phía gian trong). Qua tình tiết của câu chuyện, người nghe đã có thể hình dung đây là một ngôi nhà giàu có nhất trong buôn làng.

Tại không gian lễ hội bỏ mả của người dân tộc Ê đê M’Dhur, về khuya, sau khi mọi nghi lễ tạm dừng lại, thì người nghệ nhân kể khan bắt đầu kể những bài khan nổi tiếng cho mọi người nghe. Đây là một hình thức sinh hoạt kể sử thi vô cùng độc đáo. Bên đống lửa bập bùng tại nhà mồ rộng lớn, nghệ nhân hát kể sử thi cho hàng nghìn người Ê đê nghe. Dân làng, già trẻ gái trai và cả những vị khách gần xa ngồi im lặng say sưa cùng lắng nghe kể sử thi suốt đêm thâu cho tới khi con gà trống gáy vang núi rừng, báo hiệu ông mặt trời thức giấc cũng là lúc nghệ nhân hát kể sử thi dừng câu chuyện lại để chuẩn bị cho những nghi lễ tiếp theo của lễ hội bỏ mả. Thời điểm này, lễ hội bỏ mả được tổ chức bao lâu, thì những người tới dự lễ sẽ được nghe kể sử thi bấy nhiêu lâu.

5. Kết luận.

Sử thi Ê đê chính là một bức tranh rộng lớn và hoàn chỉnh về đời sống nhân dân và về những người anh hùng, dũng sĩ đại diện cho cả cộng đồng. Người dân Ê đê hát kể sử thi như một cách để gìn giữ và bảo tồn giá trị văn hóa lâu đời của dân tộc đồng thời cũng tuyên truyền nét đẹp này tới với nhiều đồng bào dân tộc khác.

6. Tài liệu tham khảo

  • Quá trình sưu tầm và nhận thức lí luận đối với sử thi ở Việt Nam – GS.TS Nguyễn Xuân Kinh, Viện nghiên cứu văn hoá.
  • Khan (sử thi) của người Ê Đê, Cục Di sản văn hoá.
  • Ý nghĩa tích cực trong đời sống tâm linh của đồng bào dân tộc Êđê, Hoàng Hưng (2021) – Văn hóa Việt Nam.

Trên đây BUTBI đã hướng dẫn cho các bạn Soạn bài Viết báo cáo nghiên cứu về một vấn đề – sách mới Ngữ văn 10 Kết nối tri thức. Hãy tham khảo thật kĩ bài soạn trên để hiểu bài và chuẩn bị tốt cho tiết học trên lớp sắp tới.