Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ

0

Bài viết hướng dẫn Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ SGK Ngữ văn 10 Kết nối tri thức tập 1 do Butbi biên soạn giúp các bạn học sinh chuẩn bị tốt cho tiết học Văn trên lớp sắp tới. Bài viết bao gồm phần chuẩn bị, trả lời câu hỏi cùng bài viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ tham khảo. Theo dõi ngay sau đây!

soan-bai-viet-van-ban-nghi-luan-phan-tich-danh-gia-mot-bai-tho-kntt

Tham khảo thêm bài viết:

I – Trả lời câu hỏi | Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ

Câu 1 (Trang 64, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Bài viết tham khảo cảm nhận và phân tích về bài thơ Mùa xuân xanh (Nguyễn Bính) vừa theo tuyến hình ảnh trải dọc của bài thơ, vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ. Theo bạn cách cảm nhận, phân tích đó có những ưu thế gì nổi bật? 

Lời giải chi tiết:

⇒ Ưu điểm: Cách cảm nhận và phân tích vừa theo tuyến hình ảnh dọc của bài thơ vừa theo trình tự câu thơ, khổ thơ giúp cho người đọc cảm nhận bài thơ một cách dễ, rõ ràng hơn và không bị bỏ quên một chi tiết nào của bài thơ.

Câu 2 (Trang 64, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Trong bài nghị luận phân tích, đánh giá về một bài thơ, thực chất của việc phân tích chủ đề là gì?

Lời giải chi tiết:

Thực chất, việc phân tích chủ đề là phân tích, nêu cảm nhận của bản thân về giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ đó. Phân tích chủ đề để làm nổi bật lên nét đặc sắc về nội dung và nghệ thuật của tác phẩm thơ đồng thời nhận xét và đánh giá về quan niệm của tác giả qua bài thơ đó.

Câu 3 (Trang 64, SGK Ngữ Văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống, tập một)

Người viết đã đánh giá tác phẩm thơ như thế nào? Nêu nhận xét khái quát về tính thuyết phục của những đánh giá đó.

Lời giải chi tiết:

– Người viết đã đánh giá tác phẩm thơ là bài thơ giản dị mà vẫn làm toát lên được sức sống phơi phới của vạn vật lúc xuân về. Nó chính là bài thơ của niềm vui sống, của sự chan hòa giữa con người cùng với tạo vật, là khúc dạo đầu của tình yêu đôi lứa.

– Về tính thuyết phục của đánh giá trên: Đánh giá của người viết với tác phẩm thơ đã có đủ sức thuyết phục người đọc qua những luận điểm, lí lẽ và bằng chứng xác đáng. Qua đó làm nổi bật giá trị nội dung và nghệ thuật của bài thơ.

II – Thực hành viết  – Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ

Viết bài văn phân tích và đánh giá tác phẩm thơ Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) của Đỗ Phủ.

Lời giải chi tiết:

Bài văn mẫu:

Đỗ Phủ là nhà thơ hiện thực vĩ đại của văn học Trung Quốc với những vần thơ phản ánh hiện thực và bày tỏ thái độ, cảm xúc, tâm trạng đau khổ trước hiện thực đời sống của con người trong chiến tranh, trong nạn đói chan chứa tinh thần yêu nước và tinh thần nhân đạo. 

Trong những bài thơ đặc sắc của mình, Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) là bài thơ thứ nhất trong chùm thơ tám bài được nhà thơ Đỗ Phủ sáng tác năm 766, khi đang sống phiêu dạt tại Quý Châu. Thu hứng (Cảm xúc mùa thu) vừa là bức tranh về mùa thu ảm đạm, hắt hiu, vừa là bức tranh tả tâm trạng trĩu nặng u sầu của nhà thơ trong cảnh loạn lạc; lo cho tình hình đất nước đang lâm vào cảnh rối ren; thương nhớ quê hương xa xôi và ngậm ngùi xót xa cho chính thân phận bất hạnh của mình nơi đất khách.

Phiên âm chữ Hán:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm.

Giang gian ba lãng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đế thành cao cấp mộ châm.

Trong bài thơ, bốn “câu đề” đầu với mục đích miêu tả bức tranh thiên nhiên bao la nhưng mang nỗi buồn hiu hắt tại vùng rừng núi thượng nguồn Trường Giang:

Ngọc lộ điêu thương phong thụ lâm,

Vu sơn, Vu giáp khí tiêu sâm,

Người đọc có thể nhận thấy rằng Đỗ Phủ đứng tại vị trí tương đối cao để ngắm nhìn toàn cảnh, vì thế mà tầm nhìn của nhà thơ khá xa, khá rộng. Mọi thứ được miêu tả không những theo chiều sâu và còn theo tầm mắt của ông, nhìn về phía xa xăm. Khả năng quan sát tinh tế của Đỗ Phủ còn được thể hiện ngay từ câu thơ đầu khi tả cảnh rừng phong với sương còn phủ bên trên lá cây; nó tạo ra một cảnh tượng buồn, đặc biệt là hình ảnh rừng phong lại càng nhấn mạnh thêm sự ly biệt khi lá phong chuyển sang đỏ, khi mùa thu tới. Trong thơ cổ Trung Hoa, hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu vì mỗi độ thu về, cả rừng phong đều chuyển sang màu đỏ úa, tượng trưng cho sự ly biệt. Sương móc cũng tượng trưng cho mùa thu, cho sự lạnh lẽo làm xơ xác cả rừng phong. Nét tiêu điều của cảnh vật hiện lên rất rõ qua chính cái nhìn đầy đau buồn, tâm trạng của nhà thơ.

Câu thơ thứ hai có nhắc tới hình ảnh Vu sơn, Vu giáp, người đọc sẽ nghĩ ngay đến hình ảnh đặc trưng của đất Ba Thục xưa kia – Nơi toàn cảnh bị bao trùm bởi hơi thu hiu hắt. Trong bài thơ, Vu sơn, Vu giáp nghĩa là núi Vu, hẻm Vu nổi tiếng bởi sự hiểm trở và hùng vĩ, được nhắc tới nhiều trong thần thoại, cổ tích và thơ ca Trung Quốc. Quanh năm, mây mù giăng phủ những ngọn núi cao vút; vách núi thì dựng đứng do đó ánh mặt trời khó có thể lọt được xuống tới lòng sông. Chính vì vậy mà cứ thu đến, khung cảnh nơi đây luôn mang vẻ ảm đạm, lạnh lẽo và qua ngòi bút miêu tả thấm đẫm tâm trạng u sầu của tác giả Đỗ Phủ nó lại hiện lên càng thêm tối tăm, ảm đạm.

Hai câu thơ mở đầu, câu thứ nhất tả cảnh thu tại rừng phong, câu thứ hai tả cảnh núi non mùa thu. Tuy cảnh vật khác nhau nhưng Đỗ Phủ nhìn chúng với con mắt và tâm trạng giống nhau – tâm trạng nặng trĩu một nỗi buồn thương. Hai câu thơ tuy là đều là hình ảnh về rừng núi nhưng lại chung một điểm, đó chính là nỗi buồn đang dần ngấm của tác giả, nỗi buồn ấy chế ngự cả tâm trạng và cảm xúc khi ông đặt bút ngâm thơ.

Cũng với tâm trạng như vậy, nhà thơ Đỗ Phủ đã viết nên những câu thơ tiếp theo mang nét tả thực đầy ám ảnh, giống như có ma lực cuốn hút hồn người:

Giang gian ba lăng kiêm thiên dũng,

Tái thượng phong vân tiếp địa âm.

Nếu như hai câu mở đầu là hình ảnh của rừng phong, là sự quan sát của Đỗ Phủ từ trên cao xuống thì hai câu tiếp theo lại miêu tả về cảnh sắc vừa hoành tráng lại dữ dội. Hai câu đề là cảnh thu ở trên cao (rừng phong, dãy núi) thì đến hai câu thực là cảnh thu ở dưới thấp. Hai cặp câu như bổ sung lẫn nhau lột tả được hai nét đặc sắc của phong cảnh vùng Vu sơn Vu giáp vừa âm u lại vừa hùng vĩ. Chúng vẫn là những chi tiết được cảm nhận qua đôi mắt của thi nhân và được miêu tả bằng ngọn bút kì tài mà tạo nên những vần thơ trác tuyệt. Hình ảnh mặt đất mây đùn cửa ải xa tả thực về cảnh mây trắng sà xuống thấp tới mức tưởng chừng như đùn từ dưới mặt đất lên, che lấp cả cửa ải ở phía xa xa. Bốn câu thơ tuy tả cùng một cảnh nhưng  mỗi câu là một nét chấm phá riêng, là một sự nhìn nhận toàn cảnh chứ không tập trung vào một điểm cụ thể nào. Cảnh sắc trời mây non nước, của rừng núi hiện ra vừa cụ thể lại vừa đặc trưng cho mùa thu. Nhưng chính những hình ảnh này, lại khiến tác giả nhớ quê hương tới nao lòng.

Ở bốn câu thơ sau, Đỗ Phủ bày tỏ lòng mình trước cảnh mùa thu nơi đất khách. Câu năm và câu sáu có nghệ thuật đối rất chỉnh vừa là cảnh thu mà cũng là tình thu:

Tùng cúc lưỡng khai tha nhật lệ,

Cô chu nhất hệ cố viên tâm.

Hàn y xứ xứ thôi đao xích,

Bạch Đệ thành cao cấp mộ châm.

Giống như hình ảnh rừng phong gắn liền với mùa thu, hình ảnh hoa cúc cũng đi đôi cùng với mùa thu. Đỗ Phủ nhắc tới hoa cúc, tưởng như không có gì mới nhưng điều quan trọng là mỗi lần nhìn thấy cúc nở hoa, nhà thơ lại rơi lệ. Hai lần nhìn cúc nở hoa, có nghĩa là Đỗ Phủ đã sống ở Quý Châu hai năm. Hoa cúc xui lòng thi nhân ngậm ngùi nhớ lại những mùa thu trước đây tại chốn quê cũ, vì vậy mà càng thêm xao xuyến, xúc động đến nghẹn lòng. Hình ảnh chiếc thuyền lẻ loi (cô chu) là một hình ảnh ẩn dụ mang nhiều ý nghĩa, không chỉ vì tính chất trôi nổi, đơn độc của nó mà bởi vì nó là phương tiện duy nhất để chở ước vọng của Đỗ Phủ về với quê hương trong tâm tưởng.

Tới hai câu cuối bỗng đột ngột nổi lên âm thanh dồn dập của tiếng chày đập vải ở trên bến sông, trong bóng hoàng hôn. Âm thanh duy nhất này đã đem tới cho bức tranh sinh hoạt nơi biên ải xa xôi một thoáng vui tươi nhưng thoáng vui ấy vẫn không đủ để xua đi những áng mây buồn đang bủa vây trong tâm hồn thi sĩ. Âm thanh của mùa thu may áo vừa kết thúc tác phẩm, vừa mở ra nỗi buồn nhớ mênh mang, mong ngóng, chờ đợi ngày được hồi hương của tác giả.

Bốn câu cuối tập trung vào việc miêu tả cảm xúc cũng là những vần thơ chứa đựng nhiều tình cảm, đó là lòng mong ngóng về quê nhà, nỗi khát khao được trở về quê hương, tình yêu và sự buồn bã khi phải sống tha hương. 

Đặc điểm nghệ thuật của bài thơ chính là kết cấu hết sức chặt chẽ, câu nào cũng bám chặt chủ đề, tức là các câu đều thể hiện được hai yếu tố là “cảm xúc” và “mùa thu”, vừa tả cảnh vừa chất chứa tâm trạng của nhà thơ. Cảnh có sương thu, rừng thu, sắc thu, sông thu, khí thu, gió thu, hoa thu, tiếng thu (tiếng chày đập vải). Tác giả Đỗ Phủ đã thành công thâu tóm được tất cả thần thái của mùa thu ở trong bài thơ.

Cảm xúc mùa thu chính là bài thơ mang đậm dấu ấn phong cách thơ trữ tình của nhà thơ Đỗ Phủ. Qua bài thơ ta thấy được một tâm hồn thi sĩ vừa nhạy cảm lại vừa rung động mãnh liệt với cảnh sắc. Trái tim Đỗ Phủ đã dành trọn cho quê hương, cũng qua bài thơ, tư tưởng “yêu nước thương đời” lại càng được thể hiện rõ. Với Đỗ Phủ, mùa thu đồng nghĩa cùng với nỗi buồn và niềm thương nhớ không nguôi, nhất là khi ông đang phải sống trong cảnh nghèo khổ, bệnh tật và cô đơn nơi xứ lạ. Những vần thơ của nhà thơ có sức lay động mãnh liệt, đặc biệt những vần thơ như bật lên khỏi trang giấy, mở ra một khung cảnh rất rõ ràng. Đỗ Phủ xứng đáng được người đời tôn vinh là bậc “Thi thánh” của thời kỳ Thịnh Đường mà tên tuổi lưu danh muôn thuở.

 

Trên đây Butbi đã hướng dẫn Soạn bài Viết văn bản nghị luận phân tích, đánh giá một bài thơ Sách Ngữ văn 10 Kết nối tri thức với cuộc sống tập 1. Các bạn hãy tham khảo thật kĩ bài viết để chuẩn bị bài soạn văn thật tốt cũng như tập trung lắng nghe bài giảng trên lớp để đạt hiệu quả học tập tốt nhất nhé!