Phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương là tài liệu hữu ích, gồm có dàn ý chi tiết kèm theo 1 sơ đồ tư duy và 1 bài văn mẫu phân tích hay nhất. Qua đó giúp các em học sinh lớp 11 hiểu rõ hơn về đoạn trích này. Đồng thời, tích lũy thêm được vốn từ để viết văn ngày một hay hơn.
Tham khảo thêm:
1. Dàn ý phân tích tự tình 2
a) Dàn ý phân tích tự tình 2 (Mở bài)
– Trình bày những nét tiêu biểu về nữ thi sĩ Hồ Xuân Hương: Bà được mệnh danh: “Bà chúa thơ Nôm” cùng với rất nhiều những bài thơ thể hiện sự trân trọng vẻ đẹp và niềm cảm thông, thương xót cho số phận của những người phụ nữ.
– Giới thiệu bài thơ Tự tình II: Đây là một trong số 3 bài thơ ở trong chùm thơ Tự tình thể hiện nỗi niềm buồn tủi trước cảnh ngộ lỡ làng của tác giả.
b) Dàn ý phân tích tự tình 2 (Thân bài)
* Hai câu đề: Nỗi niềm buồn tủi và chán chường
Câu 1:Thể hiện qua việc tái hiện lại bối cảnh:
– Thời gian: Đêm khuya, trống canh dồn – nhịp điệu gấp gáp, liên hồi của tiếng trống thể hiện bước đi thời gian rất gấp gáp, vội vã ⇒ Con người chất chứa những nỗi niềm, bất an
– Không gian: “văng vẳng”: lấy động tả tĩnh ⇒ không gian rộng lớn nhưng lại tĩnh vắng
⇒ Con người trở nên vô cùng nhỏ bé, lạc lõng và cô đơn
Câu 2: Diễn tả trực tiếp nỗi buồn tủi bằng cách sử dụng những từ ngữ gây ấn tượng mạnh
– Từ “trơ” được nhấn mạnh: nỗi đau và hoàn cảnh “trơ trọi”, tủi hờn và đồng thời thể hiện được bản lĩnh thách thức, đối đầu với những bất công ngang trái.
– Cái hồng nhan: Kết hợp từ lạ thể hiện lên sự rẻ rúng
⇒ Hai vế đối lập: “cái hồng nhan” đối lập với “với nước non”
⇒ Bi kịch người phụ nữ ở trong xã hội
* Hai câu thực: Diễn tả vô cùng rõ nét về tình cảnh lẻ loi và nỗi niềm buồn tủi
Câu 3: Hình ảnh của người phụ nữ cô đơn ở trong đêm khuya vắng lặng với bao xót xa
– Chén rượu hương đưa: Tình cảnh lẻ loi và mượn rượu để giải sầu
– Say lại tỉnh: vòng luẩn quẩn không có lối thoát, cuộc rượu say rồi tỉnh cũng như cuộc tình vương vấn cũng nhanh chóng tan và để lại sự rã rời
Vòng luẩn quẩn ấy gợi cảm nhận về duyên tình đã trở thành trò đùa của số phận
Câu 4: Nỗi chán chường và đau đớn ê chề
– Hình tượng thơ chứa đến hai lần bi kịch:
- Vầng trăng bóng xế: Trăng đã sắp tàn ⇒ chứng tỏ tuổi xuân đã trôi qua
- Khuyết chưa tròn: Nhân duyên chưa được trọn vẹn, chưa tìm được hạnh phúc viên mãn, tròn đầy ⇒ sự muộn màng và dở dang của con người
– Nghệ thuật đối → tô đậm thêm về nỗi sầu đơn lẻ của người muộn màng lỡ dở
⇒ Niềm mong mỏi thoát khỏi được hoàn cảnh thực tại nhưng không tìm được lối thoát.
* Hai câu luận: Nỗi niềm phẫn uất, sự phản kháng của Hồ Xuân Hương
– Cảnh thiên nhiên qua cảm nhận của người mang một niềm phẫn uất và bộc lộ cá tính:
- Rêu: sự vật yếu ớt và hèn mọn mà cũng không chịu mềm yếu
- Đá: im lìm nhưng nay cũng phải rắn chắc hơn, phải nhọn hoắt lên để “đâm toạc chân mây”
- Động từ mạnh xiên, đâm kết hợp cùng với bổ ngữ ngang, toạc: thể hiện sự bướng bỉnh, ngang ngạnh
- Nghệ thuật đối, đảo ngữ ⇒ Sự phản kháng mạnh mẽ dữ dội và vô cùng quyết liệt
⇒ Sức sống đang bị nén xuống đã bắt đầu bật lên vô cùng mạnh mẽ
⇒ Sự phản kháng của thiên nhiên hay đó cũng chính là sự phản kháng của con người
* Hai câu kết: Quay trở lại với tâm trạng chán trường và buồn tủi
Câu 7:
– Ngán: chán ngán và ngán ngẩm
– Xuân đi xuân lại lại: Từ “xuân” mang hai ý nghĩa khác nhau, vừa là mùa xuân, đồng thời cũng chính là tuổi xuân
⇒ Mùa xuân đi rồi lại trở lại theo nhịp tuần hoàn còn tuổi xuân của con người thì cứ qua đi mà không bao giờ trở lại ⇒ thật chua chát và chán nản.
Câu 8:
– Mảnh tình: Tình yêu không được trọn vẹn
– Mảnh tình san sẻ: Càng làm tăng thêm nỗi chua xót và ngậm ngùi, mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nhưng ở đây lại còn phải san sẻ
– Tí con con: tí và con con đều là hai tính từ chỉ về sự nhỏ bé, đặt hai tính từ này cạnh nhau càng làm tăng thêm sự nhỏ bé và hèn mọn
⇒ Mảnh tình vốn đã không được trọn vẹn nay lại còn phải san sẻ ra để cuối cùng trở thành tí con con
⇒ Số phận éo le, ngang trái của người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến, phải chịu thân phận làm lẽ
* Nghệ thuật
– Ngôn ngữ thơ điêu luyện, bộc lộ được hết tài năng và phong cách của tác giả:
+ Sử dụng từ ngữ, hình ảnh giàu sức tạo hình và giàu giá trị biểu cảm, đa nghĩa
– Thủ pháp nghệ thuật đảo ngữ là: câu hỏi 2, câu 5 và câu 6
– Sử dụng những động từ mạnh như: xiên ngang, đâm toạc.
c) Dàn ý phân tích tự tình 2 (Kết bài)
– Khẳng định lại những nét đặc sắc về nội dung và giá trị nghệ thuật của tác phẩm
– Thông qua bài thơ thể hiện lên giá trị hiện thực và bộc lộ được tấm lòng nhân đạo rất sâu sắc của một nhà thơ “phụ nữ viết về phụ nữ”.
2. Sơ dồ tư duy phân tích Tự tình 2
Tổng hợp một số sơ đồ tư duy bài tự tình 2 hay để các bạn tham khảo từ nó nắm được tổng quan nội dung kiến thức bài học.
a) Sơ đồ tư duy bài tự tình 2 (mẫu 1)
a) Sơ đồ tư duy bài tự tình 2 (mẫu 2)
3. Bài văn mẫu phân tích bài thơ Tự tình 2 của Hồ Xuân Hương
Trong hệ thống những bài thơ chứa đựng những tâm sự của Hồ Xuân Hương, “Tự tình” chính là một trong những bài thơ hay nhất. Bài thơ thể hiện về nỗi buồn, nỗi cô đơn thấm thía của một người yêu đời, tràn đầy sức sống nhưng gặp cảnh ngộ vô cùng éo le, một con người luôn khao khát tình yêu nhưng chỉ gặp toàn là dang dở, bất hạnh. Đó còn là sự bất hạnh của một ước mơ không thành.
Sinh ra và lớn lên ở trong một giai đoạn lịch sử đầy sóng gió (nửa cuối thế kỉ XVIII đến nửa đầu thế kỉ XIX), bà là người đã chứng kiến và phần nào chịu ảnh hưởng cái bầu không khí sôi sục của phong trào quần chúng đòi quyền sống và quyền hạnh phúc cho con người. Không khí ấy đã tác động đến tâm hồn vốn thông minh và giàu lòng trắc ẩn của bà. Bà uy nghiêm, thức tỉnh, trăn trở về cuộc đời mình, một cuộc đời lắm éo le và bạc phận: Lấy chồng hai lần, nhưng cả hai lần đều làm lẽ và hai lần chồng đều chết sớm. Điều đó, với bà chính là những biểu hiện cụ thể, đầy nước mắt của nỗi đau “hồng nhan bạc phận”. Mở đầu của bài thơ “Tự tình”, tác giả đã gợi ra một khoảng thời gian, một góc không gian xao xác tiếng gà.
Đây chính là một thứ không gian, thời gian nghệ thuật được vận dụng làm nền cho sự thổ lộ tâm trạng của tác giả: “Cảnh khuya văng vẳng trống canh dồn”. “Văng vẳng” chính là một từ tượng thanh nhưng ở đây nó vừa biểu thị cho tâm trạng, không khí, cái không khí buồn vắng lặng của một người thao thức ở giữa đêm khuya thanh vắng. Câu thứ hai nhức nhối như một lời tâm sự:
“Trơ cái hồng nhan với nước non”
Hay nhất của câu thơ thứ hai đó là từ “trơ”. Trơ chính là trơ trọi, cô đơn, lẻ loi. Nhà thơ đã cảm nhận được nỗi buồn hồng nhan. Một nỗi buồn “cụ thể” càng kinh khủng hơn khi cọ xát cùng với toàn xã hội, toàn cuộc đời: “nước non”. Một nỗi buồn đè nặng lên tâm hồn của bà, lên số phận của người phụ nữ. Không chịu đựng nổi, bà muốn chống lại và thoát khỏi. “Chén rượu hương đưa” chính là một phương tiện. Không phải phương tiện duy nhất nhưng hầu như đó là cuối cùng cho một sự đè nén quá mức. Thế nhưng, bi kịch thì vẫn cứ là bi kịch:
“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh”.
Câu thơ nữ sĩ gợi nhớ một câu thơ đầy trầm tư của Lý Bạch:
“Dùng gươm chém nước, nước chẳng dứt
Uống rượu tiêu sầu, sầu vẫn sầu”
Bất lực, câu thơ chuyển sang một sự tức cảnh sinh tình. Hồ Xuân Hương nói:
“Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn”
Trong quan điểm thẩm mỹ xưa, vầng trăng chính là tượng trưng cho cuộc đời, tuổi tác của người phụ nữ. Câu “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” vừa là một hình ảnh đẹp, có thực nhưng lại đượm buồn. Cái buồn là của một “vầng trăng khuyết”. Đối với thơ xưa, cảnh là tình, cảnh trăng khuyết man mác và gợi nhớ cuộc đời bà. Trong “mời trầu ” bà đã ẩn ý một suy nghĩ như vậy.
Sang câu 5, 6 tứ thơ giống như đột ngột chuyển biến. Sự cụ thể trong miêu tả khiến việc tả cảnh trở nên rất thuần khiết. Một cảnh thực hoàn toàn:
“Xiên ngang mặt đất rêu từng đám,
Đâm toạc chân mây đá mấy hồn”
Nghệ thuật đảo ngữ và đối tạo nên một sự sinh động và cảnh đầy sức sống. Một sức sống nhờ tài quan sát của tác giả như quẫy đạp, cựa mình. Cảnh này chỉ có thể là cảnh của “Bà chúa thơ nôm” chứ không phải của một ai khác. Rõ ràng, dẫu đang rất là buồn và rất cô đơn nhưng điều đó vẫn không suy giảm đi chất riêng của Hồ Xuân Hương. Bản lĩnh, sức sống mãnh liệt và sự khao khát với cuộc đời khiến cho bà dù lòng đầy cám cảnh mà bà vẫn nhìn cảnh vật với con mắt yêu đời, tha thiết và chứa chan sức sống. Đó là sự lý giải về những phản kháng, đối nghịch ở trong bản chất bà, tạo nên những vần thơ châm biếm đối lập nhau. Vũ khí ấy hơn hẳn những chén rượu “say rồi tỉnh”. Đó chính là phương tiện kỳ diệu nâng đỡ tâm hồn bà. Chỉ như thế mới có thể hiểu được tâm trạng, tiếng thở dài của Hồ Xuân Hương.
Yêu đời là vậy, sức sống mãnh liệt là vậy mà cuộc đời riêng thì vẫn: “Xuân đi xuân lại lại.”, điệp từ chỉ cái vòng luẩn quẩn đáng ghét và vô vị của ngày tháng, cuộc đời. Điều này khiến bà không tránh khỏi một tiếng thở dài chua sót. Càng chua xót hơn đó là khi giữa cái tuần hoàn thời gian ấy là một “mảnh tình” đang bị xan đi, sẻ lại… chia xới. Đối với trái tim thiết tha yêu đời kia, điều đó như một vết thương vô cùng nhức nhối.
Người ta nói rằng thơ chính là tâm trạng, là một bức thông điệp thẩm mỹ. Đọc “Tự tình”, là thấu hiểu được tâm sự ẩn chứa những bi kịch của Hồ Xuân Hương. Là một nhân cách luôn khao khát về một cuộc sống hạnh phúc, là một tâm hồn tràn đầy sức sống và yêu đời lại bắt gặp toàn những lần dở dang, bất hạnh, điều đó tạo nên rõ trong thơ của bà có khi là một tiếng thở dài. Một tiếng thở dài rất đáng quý của một người có hoài bão nhưng lại không thể thực hiện được, trách nhiệm chính là ở phía xã hội phong kiến, một xã hội mà hạnh phúc riêng đã đối lập vô cùng gay gắt với cơ cấu xã hội chung. Trong chiều hướng ấy, “Tự tình” chính là một bài thơ đòi quyền hạnh phúc, một lời phản kháng rất độc đáo lại chứa chan tiếng nói bênh vực của những người phụ nữ, tạo được sự thấu hiểu, đồng cảm với những cảnh ngộ éo le và trắc trở.
Hy vọng bài viết trên đây của Bút Bi sẽ giúp các bạn học tốt hơn trong chương trình ngữ văn lớp 11.
Tham khảo thêm: