Soạn bài Tự tình 2 Hồ Xuân Hương | Ngữ văn 11

0

Bài viết này của Bút Bi sẽ giúp các bạn có nguồn tư liệu tham khảo để soạn bài Tự tình 2 Hồ Xuân Hương. Với những gợi ý cụ thể và cùng với sự chuẩn bị bài của mỗi bạn, Bút Bi tin rằng các bạn sẽ có thể cảm nhận dễ dàng hơn về  những giá trị hiện thực sâu sắc của tác phẩm. Sau đây chúng ta sẽ cùng nhau soạn văn bài Tự tình 2 các bạn cùng theo dõi nhé!

TOPCLASS11  GIẢI PHÁP HỌC TẬP TOÀN DIỆN DÀNH CHO 2K7

✅ Lộ trình học 4 bước bám sát chương trình GDPT MỚI, chinh phục MỌI BỘ SGK

✅ KIỂM TRA ĐẦU VÀO - XẾP LỚP ĐÚNG TRÌNH ĐỘ của học sinh

✅ CỐ VẤN HỌC TẬP CÁ NHÂN 1:1 xuyên suốt quá trình học tập của học sinh

✅ SIÊU PHÒNG LUYỆN 10.000+ bài tập phân loại đơn vị kiến thức, theo mức độ từ DỄ - KHÓ

Tham khảo thêm:

1. Soạn bài Tự tình 2 phần tác giả (Hồ Xuân Hương)

Hồ Xuân Hương (chưa rõ năm sinh và năm mất) quê quán ở Nghệ An nhưng sống chủ yếu là ở Thăng Long.

– Bà đi nhiều nơi và thân thiết với nhiều danh sỹ.

– Cuộc đời tình duyên của Hồ Xuân Hương éo le và ngang trái.

– Bà đã được mệnh danh “ bà chúa thơ Nôm

– Nội dung sáng tác: bà thường viết về những người phụ nữ với tiếng nói cảm thương sâu sắc, khẳng định đề cao về khát vọng và vẻ đẹp của họ.

– Phong cách nghệ thuật: trào phúng nhưng lại trữ tình đậm đà chất văn học dân gian từ đề tài, cảm hứng đến ngôn ngữ và hình tượng.

– Tác phẩm: tương truyền bà có khoảng trên dưới 40 bài thơ Nôm, còn có tập lưu thượng ký  bao gồm có 24 bài thơ chữ Hán và 26 bài thơ chữ Nôm.

2. Soạn bài Tự tình 2 (tác phẩm)

2.1. Hoàn cảnh sáng tác Tự tình 2

– Theo giai thoại lưu truyền ở trong dân gian thì bà là người đa tài, đa tình, tính cách rất phóng khoáng và giao thiệp rộng, bà có rất nhiều bạn văn chương. Tuy vậy, đường tình duyên của Hồ Xuân Hương có nhiều éo le, ngang trái (hai lần lấy chồng đều làm lẽ). Vì vậy mà bà luôn sống trong tâm trạng cô đơn. Bài thơ Kể nỗi lòng (Tự tình II) có lẽ được sáng tác ở trong hoàn cảnh ấy và nằm trong chùm thơ Tự tình gồm có ba bài của Hồ Xuân Hương.

– Thể loại bài: Thất ngôn bát cú đường luật

– Chủ đề: bài thơ bày tỏ được nỗi lòng của tác giả trước duyên phận hẩm hiu.

2.2. Bố cục của bài Tự Tình 2

Có thể chia bố cục tác phẩm theo 2 cách sau:

*Cách 1

  • Hai câu đề: Giới thiệu về hình ảnh của người vợ lẽ
  • Hai câu thực: Cách giải quyết những nỗi tâm tư của người vợ lẽ
  • Hai câu luận: Khát khao tìm đến được hạnh phúc của người phụ nữ
  • Hai câu kết: Quy luật vô cùng khắc nghiệt của thời gian và tuổi trẻ

*Cách 2

  • Phần 1 (4 câu đầu): thể hiện nỗi lòng cô đơn, buồn tủi và khát vọng hạnh phúc
  • Phần 2 (4 câu tiếp): Tâm trạng rất tuyệt vọng của cảnh đời lẽ mọn

 

2.3. Giá trị nội dung của bài Tự tình 2

 

– Bài thơ đã nói lên bi kịch tình yêu, gia đình của người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến xưa. Đồng thời đó cũng là tâm trạng vừa buồn tủi, vừa phẫn uất trước cái duyên phận éo le và cuộc sống, số phận cay đắng của họ, dù đã gắng gượng vươn lên nhưng vẫn rơi vào tấm bi kịch của cuộc đời.

– Bài thơ cũng cho thấy được khát vọng sống, khát vọng hạnh phúc – những điều vô cùng giản đơn và bình dị nhưng lại là khao khát, niềm mơ ước cả cuộc đời của Hồ Xuân Hương nói riêng và của tất cả những người phụ nữ trong xã hội phong kiến nói chung.

2.4. Giá trị nghệ thuật của bài Tự tình 2

– Tác giả đã vận dụng sáng tạo được thể thơ thất ngôn bát cú Đường Luật với ngôn ngữ tiếng Việt nhưng không làm mất đi được giá trị của thể thơ mà trái lại nó còn mang đến cho thể thơ cổ điển đó một vẻ đẹp mới, gần gũi, thân thuộc hơn với người Việt Nam.

– Sử dụng từ ngữ giản dị mà rất đặc sắc với những động từ mạnh (xiên ngang mặt đất/đâm toạc chân mây), từ láy tượng thanh đã thể hiện nỗi khao khát đến cháy bỏng và sự nổi loạn ở trong tâm hồn của Hồ Xuân Hương.

– Sử dụng những hình ảnh giàu sức gợi hình(trăng khuyết chưa tròn, rêu từng đám, đá mấy hòn,…) để diễn tả về các cung bậc cảm xúc, sự tinh tế, phong phú ở trong tâm trạng của người phụ nữ khi nghĩ đến thân phận của chính mình.

3. Soạn bài Tự tình 2 (đọc hiểu văn bản)

3.1. Nỗi lòng cô đơn, buồn tủi và khát vọng được hạnh phúc của nhân vật trữ tình

* Bài thơ mở ra bằng một hoàn cảnh tâm trạng khá đặc biệt:

“Đêm khuya văng vẳng trống canh dồn

 Trơ cái hồng nhan với nước non”

  • Thời gian: vào đêm khuya
  • Không gian: trống trải, mênh mông và văng vẳng của tiếng trống cầm canh

⇒ Câu thơ đầu của bài thơ đã gợi lên buồn. Cái buồn được gợi ra từ sự tĩnh lặng của đêm khuya. Tiếng trống không gần (văng vẳng) mà vẫn nghe thấy được cái nhịp vội vàng, gấp gáp, đó chính là vì tiếng trống gợi bước đi của thời gian, gợi lên sự tàn phá và nó là tiếng trống được cảm nhận bằng tâm trạng. Chính vì vậy mà ở trong cái nhịp gấp gáp, liên hồi của tiếng trống canh ta như đã nghe thấy cả bước đi dồn dập của thời gian và sự rối bời ở trong tâm trạng của nhân vật trữ tình.

* Câu thơ thứ hai gợi lên cảm nhận về sự bẽ bàng của thân phận một cách dữ dội hơn:

– Phép đảo ngữ như là cố tình khoét sâu thêm vào cái sự bẽ bàng của tâm trạng. “Trơ” là tủi hổ, là chai lì và không còn cảm giác. Thêm vào đó, là hai chữ “hồng nhan” (chỉ dung nhan người thiếu nữ) lại đi với từ “cái” thật là rẻ rúng và thật mỉa mai. Cái “hồng nhan” trơ với nước non đúng là không chỉ gợi về sự dãi dầu mà đậm hơn có lẽ là ở sự cay đắng. Câu thơ chỉ nói đến hồng nhan mà lại gợi ra được cả sự bạc phận của chủ thể trữ tình. Nhịp câu thơ 1/3/3 cũng như vậy, cứ chì triết, lại càng khơi sâu vào sự bẽ bàng khôn tả.

– Tuy nhiên câu thơ không hẳn chỉ là có nỗi đau, mà nó còn thể hiện cả bản lĩnh của nhân vật trữ tình. Bản lĩnh đó thể hiện ở ngay trong chữ “trơ” giống như là một sự thách thức vậy. Từ “trơ” kết hợp cùng với “nước non” thể hiện sự bền gan và sự thách đố. Nó đã gợi cho ta nghĩ đến một câu thơ của Bà Huyện Thanh Quan ở trong bài Thăng Long thành hoài cổ (“Đá vẫn trơ gan cùng tuế nguyệt”).

* Nếu hai câu đề làm nhiệm vụ dẫn dắt cho người đọc vào hoàn cảnh tâm trạng thì hai câu thực đã nói rõ hơn thực cảnh và thực tình của Hồ Xuân Hương:

“Chén rượu hương đưa say lại tỉnh,

Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn.” 

– Cảnh tình Xuân Hương thể hiện qua hình tượng đã chứa đựng hai lần bi kịch: Trăng sắp tàn (bóng xế) mà vân “khuyết chưa tròn”. Cùng với đó là với Xuân Hương, tuổi xuân đã trôi qua mà nhân duyên không hề trọn vẹn.

– Hương rượu chỉ càng gợi thêm về sự cô đơn và cái bẽ bàng của phận hẩm duyên.

– Cụm từ “say lại tỉnh” đã gợi lên cái vòng luẩn quẩn, tình duyên trở thành một trò đùa.

3.2 Tâm trạng tuyệt vọng của cái cảnh đời lẽ mọn

– Hình tượng thiên nhiên ở trong hai câu luận dường như cũng mang cả nỗi niềm phẫn uất của con người:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

– Những sinh vật bé nhỏ như những đám rêu kia mà vẫn không chịu phận nhỏ bé, hèn mọn và không chịu yếu mềm. Tất cả như đang muốn bứt phá hẳn lên: rêu phải mọc “xiên ngang mặt đất”, đá đã rắn chắc lại càng phải rắn chắc hơn, lại phải nhọn hoắt để “đâm toạc  được chân mây”.

– Nghệ thuật đảo ngữ đã càng làm nổi bật sự phẫn uất của đá, của rêu và cũng là sự phẫn uất của tâm trạng con người.

– Kết hợp với việc sử dụng những động từ mạnh như (xiên, đâm) với các bổ ngữ độc đáo như (ngang, toạc) thể hiện vô cùng rõ sự bướng bỉnh và ngang ngạnh => Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt hơn với tạo hoá.

⇒ Có thể nói, ở trong hoàn cảnh bi thảm nhất, thơ Hồ Xuân Hương vẫn ẩn chứa mạnh mẽ một sức sống và một khát khao.

* Hai câu kết chính là tâm trạng chán chường, buồn tủi:

“Ngán nỗi xuân đi xuân lại lại,

 Mảnh tình san sẻ tí con con.” 

– “Ngán” là chán ngán, chính là ngán ngẩm. Xuân Hương ngán về cảnh đời éo le, bạc bẽo bởi vì xuân đi rồi xuân lại lại, tạo hoá đang chơi một vòng quay nhàm chán như chính truyện duyên tình của con người.

– Từ xuân vừa chỉ mùa xuân, vừa được dùng với nghĩa chỉ  về tuổi xuân. Với thiên nhiên, xuân đi rồi xuân lại lại nhưng với con người thì tuổi xuân đã qua không bao giờ trở lại.  Hai từ “lại” ở trong cụm từ “xuân đi xuân lại lại” cũng mang hai ý nghĩa khác nhau. Từ “lại” thứ nhất là thêm một lần nữa và trong khi đó, từ “lại” thứ hai có nghĩa là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân thì lại qua đi, đó chính là cái gốc sâu xa của sự chán ngán.

– Trong câu thơ cuối, nghệ thuật tăng tiến đã làm cho nghịch cảnh của nhân vật trữ tình lại càng éo le hơn: mảnh tình – san sẻ – tí – con con. Mảnh tình – vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn nay lại còn phải “san sẻ” thành ra gần như chẳng còn gì (tí con con) nên lại càng xót xa và tội nghiệp => Câu thơ nói lên cả nỗi lòng của một người phụ nữ trong xã hội xưa, khi cảnh chồng chung vợ chạ đối với họ không phải là quá xa lạ.

4. Hướng dẫn học bài

Câu 1 (sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1 trang 19):

– Thời gian: trong đêm khuya.

Không gian: trống trải và mênh mông rợn ngợp.

– Lòng người: trơ trọi, từ “trơ” đi liền cùng với “cái hồng nhan” cùng biện pháp đảo ngữ vô cùng gợi cảm giác xót xa, bẽ bàng.

– Hình ảnh tương phản: Cái hồng nhan ( nhỏ bé và hữu hạn) >< nước non ( to lớn – vô hạn)

→ Tô đậm tâm trạng cô đơn, lé loi.

– Cụm từ “say lại tỉnh” gợi lên  được cái vòng luẩn quẩn, càng buồn, càng cảm nhận được nỗi đau của thân phận mình.

– Hình ảnh “Vầng trăng bóng xế khuyết chưa tròn” là hình tượng chứa  tận hai lần bi kịch: trăng sắp tàn ( bóng xế) mà vẫn khuyết chưa có tròn. Đó là sự tương đồng cùng với người phụ nữ.

⇒ Ngoại cảnh cũng chính là tâm cảnh: Trăng = Người (Trăng đã sắp tàn mà vẫn chưa tròn – Tuổi xuân trôi qua mà hạnh phúc lại không trọn vẹn).

Câu 2 (sgk Ngữ Văn 11 Tập 1 trang 19):

Hình tượng thiên nhiên ở trong hai câu 5 và 6 diễn tả nỗi niềm phẫn uất của con người:

Phép đối cho  từng cặp: xiên ngang >< đâm toạcrêu từng đám >< đá mấy hòn; mặt đất >< chân mây…

– Biện pháp đảo ngữ kết hợp cùng với các động từ mạnh ( xiên, đâm) thể hiện được sự bướng bỉnh, ngang ngạnh của Hồ Xuân Hương.

– Rêu (sinh vật mềm yếu, nhỏ bé), đá (thấp và bé) không cam chịu số phận, bằng mọi cách cố vươn lên những cản trở ( mặt đất và chân mây) để chứng tỏ mình→ Đá, rêu như đang oán hờn, như đang phản kháng quyết liệt  lại với tạo hóa.

⇒ Hai câu thơ khẳng định được sức sống mạnh mẽ, quyết liệt, muốn bứt phá rào cản để tự đi tìm hạnh phúc của mình.

Câu 3 (sgk Ngữ Văn  lớp 11 Tập 1 trang 19):

Hai câu kết  chính là tâm trạng chán chường, buồn tủi của nhân vật trữ tình:

– Cụm từ “xuân đi xuân lại lại”: Xuân của tự nhiên qua đi rồi sẽ lại trở lại nhưng tuổi xuân của người thì không. Từ “lại” thứ nhất chính là thêm một lần nữa, còn từ “lại” thứ hai mang nghĩa đó là trở lại. Mùa xuân trở lại nhưng tuổi xuân lại dần qua đi.

– Nghệ thuật tăng tiến “mảnh tình – san sẻ – tí – con con” nhấn mạnh về sự nhỏ bé dần, sự ít oi, sự sẻ chia trong hạnh phúc cuộc đời của Hồ Xuân Hương làm cho nghịch cảnh càng trở nên éo le hơn: mảnh tình vốn đã ít, đã bé, đã không trọn vẹn nay lại còn phải “san sẻ” thành ra  lại chẳng còn gì (tí con con) nên càng xót xa và tội nghiệp.

Câu 4 ( sgk Ngữ Văn  lớp 11 Tập 1 trang 19):

Bài thơ vừa nói lên bi kịch, lại vừa cho thấy khát vọng hạnh phúc của Hồ Xuân Hương. Bi kịch  ở trong bài thơ là bi kịch của tuổi xuân và của duyên phận. Xuân đi rồi xuân lại tới, thời gian của thiên nhiên, của trời đất cứ tuần hoàn mà tuổi xuân của con người cứ mãi mãi qua đi không trở lại. Ở trong hoàn cảnh ấy, sự nhỡ nhàng, sự dở dang của duyên tình lại càng tăng thêm sự xót xa. Rơi vào hoàn cảnh ấy, trước sự trớ trêu của số phận nhưng bà vẫn luôn khát khao hạnh phúc, gồng mình lên để chống lại với sự nghiệt ngã của số phận.

5. Soạn bài Tự tình 2 (luyện tập)

(sgk Ngữ Văn lớp 11 Tập 1 trang 20): So sánh hai bài thơ Tự tình 1 và Tự tình 2 của tác giả Hồ Xuân Hương

* Giống nhau:

– Đều sử dụng thơ Nôm đường luật, thể hiện tài năng của tác giả ở trong việc sử dụng ngôn ngữ sắc sảo, tài hoa nhất chính là khả năng sử dụng các biện pháp nghệ thuật: đảo ngữ, phép đối và tăng tiến…

– Bộc lộ tâm trạng: nỗi buồn tủi, xót xa và phẫn uất trước cảnh duyên phận hẩm hiu.

* Khác nhau:

– Cảm xúc ở trong Tự tình I là nỗi niềm của nhà thơ trước duyên phận hẩm hiu, có nhiều mất mát, trước lẽ đời đầy nghịch cảnh, đồng thời là sự vươn lên của chính bản thân và thách đố lại duyên phận.

– Còn ở Tự tình II, cũng chính là sự thể hiện của bi kịch duyên phận muộn màng, cố gắng vươn lên nhưng đến cuối cùng cũng không thoát được bi kịch. Chính vì thế bi kịch như được nhân lên và phẫn uất hơn.

6. Tóm tắt bài Tự tình 2 Hồ Xuân Hương

Thân phận lẽ mọn của người phụ nữ ở trong xã hội phong kiến chính là một đề tài khá phổ biến trong văn học dân gian và văn học viết của thời hiện đại. Tình yêu và hạnh phúc gia đình chính là một trong những mối quan tâm lớn của văn học từ xưa đến nay. Nó góp phần thể hiện rõ tinh thần nhân đạo ở trong văn học. Chùm thơ Tự tình chính là một trong những tác phẩm tiêu biểu viết về người phụ nữ trong văn học Việt Nam – Hồ Xuân Hương.

Người phụ nữ cô đơn ở trong đêm khuya vắng lặng nghe tiếng trống cầm canh báo thời khắc đã đi qua. Cảnh khuya là thời gian từ nửa đêm cho tới sáng. Nàng cảm thấy tiếng trống canh báo hiệu  về thời gian khắc khoải mong ngóng một điều gì. Nhưng càng mong ngóng thì lại càng không thấy. Tiếng trống canh đang dồn dập kia chính là thông báo về thời gian  và tâm trạng của nàng. Nó thể hiện nỗi chờ mong khắc khoải và thảng thốt thiếu tự tin, đầy lo âu và tuyệt vọng của  một người đàn bà.

Hồ Xuân Hương đã diễn tả tâm trạng bẽ bàng của người vợ cô đơn chờ mong chồng mà chồng không đến bằng một chữ trơ là trơ trọi, trơ cái hồng nhan, cái thân phận phụ nữ với nước non, với đời và với tình yêu.

Hai câu tiếp theo, nhà thơ diễn tả tâm trạng tuyệt vọng của người vợ chờ chồng.

Nếu như bốn câu thơ đầu tiên diễn tả về cái tâm trạng chờ đợi mòn mỏi có phần tuyệt vọng và buông xuôi, thì ở hai câu năm và sáu, nhà thơ đã bất ngờ vẽ ra hình ảnh một sự cảm khái. Cái đám rêu kia còn được bóng trăng xế xiên ngang xuống mặt đất soi chiếu tới. Ta có thể tưởng tượng: những hòn đá kia còn được ánh trăng đâm toạc chân mây để soi đến.

Hoá ra thân phận của mình cô đơn không bằng được như máy thứ vô tri vô giác kia! Đây không nhất thiết phải là cảnh thực, ma có thể chỉ là hình ảnh trong tâm tưởng. Mấy chữ xiên ngang và đâm toạc có ý tiếp cái mạch văn trũng bóng xế ở câu trên. Nhưng các sự vật và hình ảnh thiên nhiên ở đây diễn ra ở trong dáng vẻ khác thường, do việc tác giả sử dụng những từ ngữ chỉ hành động có tính chất mạnh mẽ và dữ dội:

“Xiên ngang mặt đất, rêu từng đám,

Đâm toạc chân mây, đá mấy hòn.”

Hai câu thơ này cũng có thể hiểu chính là đảo ngữ: rêu từng đám xiên ngang được mặt đất, còn đá mấy hòn vươn lên đâm toạc được chân mây. Và đó không phải là hình ảnh của ngoại cảnh, mà chính là hình ảnh của tâm trạng, một tâm trạng bị dồn nén, bức bối muốn đập phá và muốn làm loạn, muốn được giải thoát ra khỏi sự cô đơn, chán chường. Nó thể hiện một cá tính mạnh mẽ, táo bạo của chính tác giả.

Bài thơ chính là lời than thở cho số phận hẩm hiu của người phụ nữ phải chịu cảnh lẽ mọn, thể hiện một thái độ bi quan, chán nản của tác giả và cái  thân kiếp thiệt thòi của con người.

Tác phẩm trình bày nghệ thuật mối mâu thuẫn giữa khát vọng hạnh phúc lứa đôi trọn vẹn của người phụ nữ ở trong cảnh lẽ mọn với hiện thực phũ phàng là sống trong cô đơn và mòn mỏi mà họ đã phải chịu đựng, giữa mong ước chính đáng được sống trong hạnh phúc vợ chồng cùng với việc chấp nhận thân phận thiệt thòi do cuộc sống đem lại.

Bài thơ bày tỏ sự cảm thông vô cùng sâu sắc của tác giả đối với nỗi bất hạnh của một người phụ nữ, phê phán gay gắt về chế độ đa thê trong xã hội phong kiến, đồng thời thể hiện được rõ sự bất lực và cam chịu của con người trước cuộc sống của hiện tại.

Hy vọng bài viết trên đây của Bút Bi sẽ giúp các bạn học tốt hơn trong chương trình ngữ văn lớp 11.

Tham khảo thêm: