Phân tích Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ văn 12

0

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm là một trong những tác phẩm văn học quan trọng trong chương trình Ngữ văn lớp 12. Để giúp các em củng cố, mở rộng kiến thức về tác phẩm, cũng như hiểu rõ hơn những điều mà tác giả muốn gửi gắm qua những câu thơ, Butbi đã phân tích bài thơ Đất nước một cách chi tiết nhất trong bài viết dưới đây. Hãy cùng tham khảo nhé.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Phân tích Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ văn 12
Phân tích Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ văn 12

Tham khảo thêm:

A. Dàn ý chi tiết phân tích bài thơ Đất nước

1. Mở bài:

– Giới thiệu vài nét về Nguyễn Khoa Điềm và tác phẩm Đất nước (về hoàn cảnh ra đời, nội dung…)

  • Nguyễn Khoa Điềm là nhà thơ được lớn lên trong những ngày tháng hòa bình và trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ của nhân dân ta, ông là một nhà thơ tiêu biểu cho thế hệ thơ trẻ trong những năm chống Mĩ.
  • Bài thơ Đất nước được trích trong bản trường ca Mặt đường khát vọng, đây là một bài thơ có chất triết lí sâu sắc, thể hiện một tư tưởng mới mẻ “Đất nước của nhân dân”,  nhằm thức tỉnh thế hệ trẻ ở thành thị miền Nam ra  đường đấu tranh cùng đồng bào.

2. Thân bài:

Phân tích luận điểm 1: Cảm nhận đất nước từ nhiều phương diện.

– Lý giải cội nguồn của đất nước (xét theo phương diện lịch sử, văn hoá dân tộc).

  • Câu thơ “Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi” -> Nói lên rằng Đất nước đã có tự lâu đời.
  • Cụm từ “ngày xửa ngày xưa” -> cụm từ quen thuộc thường được dùng để mở đầu các câu chuyện dân gian.
  • “miếng trầu” -> nhắc đến tục ăn trầu của người Việt xưa và câu truyện cổ tích trầu cau
  • Câu thơ “Tóc mẹ thì bới sau đầu” -> nhắc đến thói quen búi tóc của những người phụ nữ Việt Nam xưa.

Những điều này thể hiện Đất nước đã gắn liền với những truyền thống văn hoá và hiện diện trong quá trình hình thành phong tục tập quán.

  • Câu thơ “Thương nhau bằng gừng cay muối mặn” -> Nói đến một thói quen tâm lí, truyền thống yêu thương nhau của dân tộc.
  • “cái kèo cái cột thành tên” => Cách đặt tên con bằng đồ vật của người Việt Nam xưa.
  • “một nắng hai sương” -> Đất nước lớn lên cùng với quá trình lao động sản xuất.

Đất nước được bắt nguồn từ những điều giản đơn, bình dị, gần gũi nhất trong đời sống của người Việt Nam từ xa xưa mà chẳng phải là ở đâu xa xôi, hay một thứ gì đó trừu tượng.

– Cảm nhận về đất nước của tác giả qua phương diện không gian và thời gian

→ Về không gian địa lí:

  • “Đất / nước” : từ từ này được tách riêng nhằm suy tư một cách sâu sắc
  • “nơi anh đến trường”, “nơi em tắm”, còn là “nơi em đánh rơi… thương thầm” : đây đều là những địa điểm quen thuộc, gần gũi, là nơi sinh sống của mỗi người (đi theo một giai đoạn nhất định: sinh ra, lớn lên, đi học, trưởng thành và những rung động đầu đời,…)
  • “nơi con chim phượng hoàng” hay “nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi”: Đất nước là núi, là sông, là rừng, là biển.
  • “là nơi dân mình đoàn tụ…” : Đất nước còn là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua biết bao thế hệ. 

→ Về thời gian:

  • Đất nước đã có từ thuở xa xưa, gắn liền với truyền thuyết các dân tộc anh em là con cháu Lạc Hồng và truyền thuyết dựng nước của các vua Hùng cùng ngày giỗ Tổ.
  • Trong hiện tại: đất nước có ở trong tấm lòng của mỗi con người và mỗi người đều thừa hưởng những giá trị to lớn của đất nước, khi có sự gắn kết giữa mỗi người thì đất nước sẽ nồng thắm, hài hòa, lớn lao hơn. Đó chính là sự gắn kết chặt chẽ giữa cái riêng và cái chung.
  • Trong tương lai: thế hệ trẻ, thế hệ mai sau sẽ “mang đất nước đi xa”, đi “đến những ngày mơ mộng” và đất nước sẽ trường tồn, mãi bền vững.
    => Đất nước được tác giả cảm nhận suốt chiều dài thời gian lịch sử, đi từ quá khứ đến hiện tại và tới tương lai.

* Luận điểm 2: Tư tưởng cốt lõi Đất nước của Nhân dân.

– Thiên nhiên, vị trí địa lí của đất nước không chỉ là sản phẩm do tạo hóa tạo thành mà nó còn được hình thành từ những phẩm chất và số phận của mỗi người, là một phần máu thịt và tâm hồn con người:

  • Nhờ tình nghĩa yêu thương, thủy chung son sắt mà có “hòn Vọng Phu”, “hòn Trống Mái”.
  • Nhờ tinh thần bất khuất, kiên cường của dân tộc ta trong quá trình xây, dựng nước và giữ nước mà có những ao đầm, di tích lịch sử.
  • Nhờ có truyền thống hiếu học, ham kiến thức mà có những “núi Bút non Nghiên”

– Nhân dân ta đã làm nên lịch sử 4000 năm:

  • Họ là những người con trai, con gái, là những người nông dân hết sức bình dị nhưng luôn thường trực một tình yêu nước lớn lao.
  • Tác giả nhấn mạnh đến những con người vô danh nhưng chính họ đã làm nên lịch sử, khẳng định vai trò quan trọng của mỗi cá nhân với lịch sử dân tộc.

– Nhân dân tạo ra và giữ gìn, lưu truyền những giá trị vật chất, tinh thần cho đất nước: đo s là văn hóa “truyền hạt lúa”, “truyền lửa”, “truyền giọng nói”, “gánh theo tên xã, tên làng”,… từ đó mới xây dựng nền móng phát triển đất nước lâu bền.

– Tư tưởng cốt lõi và cảm hứng bao trùm cả đoạn trích đó là: “đất nước này là đất nước của nhân dân, đất nước của những ca dao thần thoại”, đất nước ấy thể hiện qua tâm hồn mỗi con người: họ biết yêu thương, biết quý trọng tình nghĩa, công sức và biết chiến đấu hi sinh vì đất nước.

3. Kết bài:

– Khái quát lại toàn bộ giá trị nội dung bài thơ: Đất nước được cảm nhận trên nhiều các phương diện, cái nhìn mới mẻ, độc đáo về đất nước với tư tưởng cốt lõi đó là tư tưởng đất nước của nhân dân. Đồng thời cũng nêu lên trách nhiệm, sứ mệnh cao cả của các thế hệ, đặc biệt là thế hệ trẻ đối với đất nước mình.

– Đặc sắc nghệ thuật:

  • Sử dụng đa dạng, sáng tạo các chất liệu của văn hoá dân gian
  • Ngôn từ giàu chất suy tư, triết lý sâu sắc
  • Thể thơ tự do linh hoạt, hiện đại
  • Giọng thơ trữ tình xen lẫn chính luận, sâu lắng, thiết tha.

– Nêu cảm nhận của chính bản thân mình về bài thơ

– Liên hệ trách nhiệm của thế hệ trẻ ngày nay đối với đất nước.

B. Sơ đồ tư duy phân tích Đất nước

Chi tiết sơ đồ tư duy bài phân tích Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm để các bạn tham khảo:

Sơ đồ tư duy phân tích Đất nước
Sơ đồ tư duy phân tích Đất nước

 

C. Phân tích bài thơ Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm chọc lọc hay nhất

 

Đất nước – chỉ vỏn vẹn 2 từ thôi nhưng khi cất lên mới thấy nó thiêng liêng làm sao, nó làm xao xuyến bao triệu trái tim con người. Đất nước đi vào đời chúng ta một cách nhẹ nhàng qua những lời ru ngọt ngào êm dịu của bà của me, qua những làn điệu, những câu dân ca mượt mà và qua những vần thơ sâu lắng, thiết tha và rất đỗi tự hào của bao lớp thi nhân. Ta đã bắt gặp một hình tượng đất nước đầy đau thương, mất mát nhưng vẫn ngời lên ý chí đấu tranh trong trang thơ của Nguyễn Đình Thi, hay một Đất nước cũng rất dịu dàng ý tứ trong thơ của Hoàng Cầm. Nhưng với Nguyễn Khoa Điềm lại khác, ta lại bắt gặp một Đất nước qua cái nhìn toàn vẹn hơn, được tổng hợp từ nhiều bình diện khác nhau. Thông qua những vần thơ giản dị mộc mạc kết hợp giữa cảm xúc và suy nghĩ, giữa trữ tình và chính luận, nhà thơ muốn thức tỉnh ý thức, nêu cao tinh thần dân tộc, tình cảm với nhân dân, đất nước và nhắc nhở về trách nhiệm của thế hệ trẻ Việt Nam trong những năm chống Mĩ cứu nước.

Mở đầu đoạn trích ta bắt gặp một giọng thơ nhẹ nhàng, thủ thỉ như những lời tâm tình kết hợp với hình ảnh thơ thật bình dị gần gũi đưa ta trở về với cội nguồn của đất nước.

Khi ta lớn lên Đất nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa

Ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc”.

Trước hết, Đất nước không phải là một khái niệm gì đó trừu tượng, hay ở nơi đâu xa xôi mà nó là những điều hết sức gần gũi, thân thiết ở ngay trong chính cuộc sống bình dị của mỗi con người. Đất nước có trong những câu chuyện cổ tích ngày xửa ngày xưa mà mẹ thường hay kể, có trong miếng trầu của bà hay ăn, cây tre trước ngõ… Tất cả gợi lên một Đất nước Việt Nam bao dung, hiền hậu, thủy chung son sắt tình nghĩa anh em, nhưng cũng vô cùng quyết liệt khi đứng lên đấu tranh chống quân xâm lược. Mỗi quả cau, miếng trầu, mỗi cây tre đều gợi về một vẻ đẹp tinh thần của Đất nước, đều thấm đẫm ngọn nguồn lịch sử dân tộc ta.

Đất nước còn là hiện thân của những phong tục tập quán có từ ngàn đời nay, là minh chứng của một dân tộc rất giàu truyền thống văn hóa, giàu tình yêu thương gắn bó với mái ấm gia đình. “Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”. Gừng đương nhiên là cay mà muối thì tất nhiên là mặn. Tình yêu thương cha mẹ dành cho nhau mãi mãi mặn nồng như chính chân lí tự nhiên kia. 

Đất nước còn là thành quả của chính những công cuộc lao động vất vả để sinh tồn, để dựng xây nhà cửa của cha ông ta:

Cái kèo cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó”.

Một lần nữa, Đất nước được hiện lên với những hình ảnh vừa quen thuộc vừa gần gũi biết bao. Việc tác giả sử dụng những chất liệu dân gian thân thuộc để thể hiện suy tưởng của mình về đất nước với tư tưởng cốt lõi “Đất nước của nhân dân”.

Vẫn bằng lối trò chuyện tâm tình  thủ thỉ với nhân vật đối thoại trong tưởng tượng, Nguyễn Khoa Điềm đã diễn giải về khái niệm đất nước theo một kiểu riêng của mình:

“Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm”.

Đất nước không chỉ được cảm nhận trong không gian văn hóa, phong tục tập quán, trong lối sinh hoạt của con người mà nó còn hiện lên trong tình yêu lứa đôi mặn nồng, tha thiết nhất. Tác giả đã tách 2 từ “đất nước” thành hai từ “đất” và “nước” riêng biệt để lí giải rõ hơn, cụ thể hơn về ý nghĩa của từng từ. Đây có thể coi là sự tinh tế đầy thi vị và một sự sáng tạo độc đáo của Nguyễn Khoa Điềm. Nhưng dù được tách ra như thế thì đất nước vẫn là một khái niệm trọn vẹn và mang đầy đủ ý nghĩa nhất.

Không chỉ dừng lại ở đó, Đất nước còn được mở ra theo chiều dài của lịch sử, chiều dài của không gian văn hóa, của những con người vẫn còn đang trằn trọc tha thiết đi tìm hình bóng quê hương. Đất nước được hình thành từ những câu chuyện có từ xa xưa, từ những điển tích điển cố ngàn đời trước mà người đời sau vẫn luôn nhắc nhở nhau. Hình ảnh “con chim phượng hoàng”, “núi bà Đen, bà Điểm”, hay “Lạc Long Quân Âu Cơ” chính là những minh chứng cho sự phát triển đầy thăng trầm nhưng cũng rất đáng tự hào của chúng ta. Nhớ về cội nguồn, nhớ về những ngày tháng xưa kia vất vả chính là đạo lí, là truyền thống uống nước nhớ nguồn mãnh liệt của nhân dân ta. Đất Nước là nơi trở về của những tâm hồn, những con người luôn thiết tha với quê hương. Đất Nước mình bình dị, quen thuộc gần gũi là vậy nhưng đôi khi cũng thật rộng lớn, tráng lệ và kì vĩ vô cùng, nhất là đối với những người đi xa. Dù chim ham trái chín ăn xa, thì cũng có lúc giật mình nhớ gốc cây đa lại về. Gia đình người Việt là như thế, lúc nào cũng luôn một hướng về quê hương, hướng về cội nguồn của mình.

Đất nước trường tồn mãi mãi trong không gian và thời gian: Thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông rộng lớn để mãi mãi là nơi dân mình đoàn tụ, là không gian sống, là nơi sinh tồn của cộng đồng Việt Nam qua hàng nghìn thế hệ. Nguyễn Khoa Điềm đã khéo léo gợi lại truyền thuyết Lạc Long Quân và Âu Cơ, về truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ tổ để muốn nhắc nhở mọi người luôn nhớ về cội nguồn của dân tộc. Dù bôn ba ở chốn nào, người dân Việt Nam cũng đều hướng về miền đất tổ, nhớ đến dòng giống Rồng Tiên của mình.

Nhắc đến những chuyện xa xưa  ấy như để khẳng định, cũng là để nhắc nhở rằng:

Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Gánh vác phần người đi trước để lại

Dặn dò con cháu chuyện mai sau”

Cảm hứng thơ của tác giả trong đoạn trích có vẻ phóng túng, tự do, thoải mái nhưng vẫn có một hệ thống lập luận rõ ràng, tác giả đã thể hiện đất nước trong ba phương diện chính đó là: trong chiều rộng của không gian lãnh thổ địa lí, trong chiều dài thăm thẳm của thời gian lịch sử và trong bề dày của văn hóa – phong tục cũng như lối sống tâm hồn và tính cách dân tộc.

Ba phương diện ấy được gắn bó thống nhất với nhau và ở bất cứ phương diện nào thì tư tưởng cốt lõi đất nước của nhân dân vẫn như là một hệ qui chiếu mọi cảm xúc và suy tưởng của nhà thơ.

Và cụ thể, gần gũi hơn nữa, Đất nước ở ngay trong chính máu thịt của mỗi người chúng ta:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần đất nước”

Ngay trong cơ thể chúng ta, Đất nước đã thấm tự nhiên vào máu thịt, đã hóa thành máu xương, vì thế mà sự sống của mỗi cá nhân không phải là riêng của mình mà là của cả đất nước. Dù ít dù nhiều  mỗi con người đều thừa hưởng những di sản văn hóa vật chất và tinh thần của đất nước, vì vậy phải giữ gìn và bảo vệ để làm nên một đất nước muôn đời.

Chính từ những quan niệm như vậy về đất nước, mà phần sau của tác phẩm tác giả đã tập trung làm nổi bật lên tư tưởng: Đất nước của nhân dân, chính Nhân dân là người đã sáng tạo, đã làm lên Đất nước.

Tư tưởng đó đã đưa đến một cái nhìn hoàn toàn mới mẻ, có chiều sâu về địa lí, về những danh lam thắng cảnh trên khắp mọi miền của đất nước. Những núi Vọng Phu, hòn Trống Mái hay những núi Bút non Nghiên… không chỉ đơn giản là những cảnh thú thiên nhiên nữa mà được cảm nhận thông qua những phẩm chất, số phận của nhân dân, nó có được là do những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên tuổi là những người vợ nhớ chồng, mong ngóng chồng trở về nên tạo ra núi Vọng Phu, là những cặp vợ chồng yêu thương nhau tạo lên hòn Trống Mái….

Ở đây qua cách nhìn của Nguyễn Khoa Điềm cảnh vật thiên nhiên hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân là người đã tạo dựng lên đất nước, đã đặt tên và ghi dấu vết chính cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, những hiện tượng cụ thể đó mà nhà thơ quy nạp thành một khái quát sâu sắc:

Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi

Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha

Ôi ! Đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hóa núi sông ta.”

Tư tưởng Đất nước của nhân dân đã lấn chiếm, chi phối cách nhìn của nhà thơ khi nghĩ về lịch sử 4000 của đất nước. Nhà thơ không ca ngợi các triều đại hay không nói đến những vị anh hùng dân tộc được lưu danh sử sách mà chỉ tập trung nói đến những con người vô danh, bình dị, bình thường. Đất nước trước tiên chính là của nhân dân, của những con người vô danh hết sức bình dị đó.

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mặt đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất nước”

Họ lao động và đứng lên chống giặc ngoại xâm, họ đã giữ gìn và truyền lại cho các thế hệ sau này những giá trị văn hóa, văn minh, tinh thần và vật chất từ cao quý đến giản dị của đất nước, từ hạt lúa, ngọn lửa, tiếng nói, tên làng đến những câu truyện thần thoại, câu ca dao, tục ngữ. Mạch cảm xúc lắng tụ lại để rồi đến cuối cùng dẫn tới cao trào, làm nổi bật lên tư tưởng cốt lõi của toàn bài thơ vừa bất ngờ, vừa giản dị và đầy độc đáo:

Đất nước này là Đất nước nhân dân

Đất nước của Nhân dân, Đất nước của ca dao thần thoại

Một định nghĩa vô cùng giản dị, bất ngờ về đất nước. Đất nước của ca dao thần thoại nhưng vẫn được thể hiện ở những phương diện quan trọng nhất của truyền thống nhân dân, của dân tộc .

Bài thơ kết lại bằng tiếng hát mang đầy sự tự hào, trải dài, dường như âm hưởng của nó vang vọng khắp cả núi sông. Đồng thời tiếng hát đó cũng cho ta thấy sự biết ơn, niềm tự hào sâu sắc của tác giả đối với vốn truyền thống văn hóa ngàn đời mà cha ông để lại    

Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã góp thêm một tuyệt tác trong kho tàng văn học dân tộc viết về đất nước. Từ những cảm nhận hết sức gần gũi, quen thuộc, đất nước chẳng còn xa lạ, trừu tượng, xa xôi mà trở nên thân thiết nhưng vẫn rất thiêng liêng. Đọc Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm người đọc không chỉ tìm về cội nguồn của dân tộc mà còn khơi dậy tinh thần, nhắc nhở về tinh thần trách nhiệm của thế hệ trẻ đối với đất nước.

Bạn đang tham khảo bài viết “Phân tích Đất Nước Nguyễn Khoa Điềm | Ngữ văn 12″

Tham khảo thêm: