Phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo – Nguyễn Tuân

0

Tổng hợp những bài phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo hay cùng với dàn ý chi tiết. Qua đó giúp các bạn có thêm nhiều gợi ý ôn tập, củng cố kiến thức, biết cách chọn lọc ý hay khi làm bài để đạt được kết quả cao nhất trong kì thi THPT Quốc gia 2022.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Vẻ đẹp hung bạo của sông Đà có lẽ chẳng thể nào làm chúng ta quên được. Dù đôi lúc nó cuồng nộ, giận dữ như những con quái vật mang cho người ta cảm giác thật ghê rợn. Nhưng đó là một vẻ đẹp cực kỳ hào hùng và kiêu hãnh. Và cũng chỉ có ngòi bút của tác giả Nguyễn Tuân mới lột tả hết được cái vẻ đẹp kiêu sa và hùng vĩ đó. Vậy sau đây là những bài văn phân tích sông Đà hung bạo, mời các bạn cùng mình đón đọc tại đây nhé.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo

a) Mở bài phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo

– Là một nhà văn tài hoa rất độc đáo, tác giả Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, mãnh liệt hoặc với những đẹp một cách tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường là trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước.

– Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, khi ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, cỏ cây trên khung hình đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện đậm nét phong cách nhà văn Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” với sự chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng nghệ đặc sắc.

b) Thân bài phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo

* Phân tích tính cách hung bạo của dòng sông Đà:

– Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông của tác giả tả theo đủ cách:

  • “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ cũng mới có mặt trời”
  • “Con hổ con nai có thể vọt qua sông, và cũng chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này rồi qua bên kia vách”
  • “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, khi mà đang mùa hè cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà với sự ngóng vọng lên một cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào cũng vừa tắt phụt đèn điện”

-> So sánh vừa chính xác, rất tinh tế, vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn lục lọi đến tận những kiệt cùng cái kho ấn tượng ăm ắp này để tìm cho được một trong những cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

– Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, có đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt nhiều năm” -> bằng chính những lối viết tài hoa, những câu văn diễn đạt theo nhiều kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, đã dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt hết con người.

– Những hút nước ở quãng Tà Mường Vát khi: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” và “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên”, “những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc hút những chiếc thuyền xuống rồi cũng đánh chúng tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì những loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố đến tinh thần và uy hiếp con người.

– Âm thanh những con thác nước sông Đà:

  • Nguyễn Tuân như một người nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng bài ca của gió thác đã xô sóng đá.
  • Ban đầu tác giả mới để cất lên khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” và “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, với các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của một thiên nhiên đang ở chính đỉnh điểm của một cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại mà: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa những rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa”, “rừng lửa cùng cần gầm thét với đàn trâu da cháy bùng bùng” -> với sự liên tưởng vô cùng phong phú, âm thanh của thác nước sông Đà được tác giả Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì những âm thanh của một trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa với thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, lấy rừng để tả sông, khi mà Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông lắm khi trong nghệ thuật.

– Bằng thủ pháp nhân hóa, người đã đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nhà văn Nguyễn Tuân đã dùng đến sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá là: “Cả một chân trời đá” mặt hòn nào cũng trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm”, “méo mó” -> Những hòn đá đã vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của Nguyễn Tuân chúng mang dáng vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại, hung dữ với ba trùng vi thạch trận.

  • Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào bẻ gãy cán chèo”, khi sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào bên hông thuyền”.
  • Trùng vi thạch trận thứ II: “Sông nước bài binh bố trận ở khắp nơi, tăng nhiều cửa tử, cửa sinh đã nằm ở phía hữu ngạn”
  • Trùng vi thạch trận thứ III: Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là những luồng chết, luồng sống ở ngay giữa.

=> Con sông Đà hung bạo, tàn ác không hề khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh con sông ấy lại chính là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, tài tử và thật cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút của đất nước Việt Nam.

c) Kết bài phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo

Cảm nhận của các bạn về tính cách hung bạo và đầy những biến động của sông Đà.

2. Văn mẫu phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo

Phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo (mẫu 1)

Bài phân tích con Sông Đà trữ tình với vẻ bề ngoài hung bạo đạt điểm 9+

Nguyễn Tuân là một trong những nhà văn tài hoa, độc đáo, Nguyễn Tuân thích miêu tả những cái gì dữ dội, thật mãnh liệt hoặc đẹp một cách rất tuyệt đỉnh. Những trang viết hay nhất của ông thường chính là những trang tả đèo cao, vực sâu, thác nước. tác giả Nguyễn Tuân yêu thiên nhiên tha thiết, ông có nhiều phát hiện tinh tế về vẻ đẹp của núi sông, với cỏ cây trên đất nước mình. Bút kí “Người lái đò sông Đà” đã thể hiện sự đậm nét phong cách Nguyễn Tuân. Cảm hứng về dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” đã chảy trên trang văn của Nguyễn Tuân biến vùng sông nước ấy thành một hình tượng với sự nghệ thuật đặc sắc.

“Người lái đò sông Đà” rút từ tập tùy bút “Sông Đà” của nhà văn Nguyễn Tuân. Tác phẩm là kết quả của nhiều dịp ông đến với sự Tây Bắc trong thời kỳ kháng chiến chống Pháp, đặc biệt chính là kết quả của chuyến đi thực tế Tây Bắc vào năm 1958. Nguyễn Tuân đến với nhiều vùng khác nhau, nhịp sống với bộ đội, thanh niên xung phong, công nhân cầu đường và cả những người đồng bào các dân tộc. Thực tiễn xây dựng cuộc sống mới cũng đã đem lại cho nhà văn nguồn cảm hứng sáng tạo. Đến với những tác phẩm của Nguyễn Tuân chính là ta đang đến với một tâm hồn vô cùng phong phú, với những phát hiện hết sức là tinh tế, độc đáo về quê hương. Nguyễn Tuân là một nhà văn yêu nước, luôn giàu lòng tự hào dân tộc. Tình yêu nước ấy cũng chính là những tình yêu thiên nhiên tha thiết. Khám phá về sông Đà – dòng chảy dữ dội của khi núi rừng Tây Bắc là một thành công đặc sắc của ông. Chỉ có Nguyễn Tuân mới không có nhọc công dò đến ngọn nguồn lạch sông, truy tìm đến tận nơi gốc tích khi đã khai sinh ra sông Đà, để biết chỗ phát nguyên của chính nó thuộc huyện Cảnh Đông và thoạt kỳ thủy, dòng sông mang những cái tên Trung Hoa khá thơ mộng: Ly Tiên, Bả Biên Giang. Cũng chưa có nhà văn nào trước Nguyễn Tuân có thể kể nhiều tên vanh vách 50/73 con thác lớn nhỏ nằm lô nhô suốt một dải sông từ Lai Châu và về đến chợ Bờ. Cũng không có ai như Nguyễn, để có thể hạ bút viết đúng ba câu về màu sắc nước sông Đà đã phải có mấy lần bay ngang qua những miền sông ấy. Dòng sông Đà trong cảm nhận của nhà văn có hai nét tính cách đối lập đó là: hung bạo và trữ tình.

Nguyễn Tuân miêu tả con sông Đà ở khi những trạng thái đối lập nhau. Trước tiên, con sông hiện lên với một trong những vẻ ngoài hung bạo. Vách đá “đá bờ sông dựng vách thành” và khi những bức thành vách đá cao chẹt chặt lấy lòng sông hẹp. Cái hẹp của lòng sông tác giả đã tả theo đủ cách: “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”, con hổ con nai cũng có thể vọt qua sông, và chỉ cần nhẹ tay thôi cũng có thể ném hòn đá từ bờ bên này qua đến bên kia vách. “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè cũng cảm thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một trong những cái khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Sự so sánh vừa chính xác, tinh tế, đã vừa bất ngờ và lạ lùng. Cảm giác như Nguyễn Tuân luôn luôn lục lọi đến tận kiệt cùng cái kho ấn tượng nay ăm ắp để tìm cho được khi một cách nói có thể làm kinh động hồn trí con người.

Gió trên sông Đà: “Dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, cuồn cuộn và luồng gió gùn ghè suốt năm …” Với lối viết tài hoa, những câu văn đã diễn đạt theo kiểu móc xích, cấu trúc câu trùng điệp, với gợi hình ảnh con sông Đà cuồng nộ, dữ dằn như lúc nào cũng muốn tiêu diệt hết con người. Những hút nước ở những quãng Tà Mường Vát: “nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “chỗ giếng nước sâu ặc ặc lên …” với những cái hút nước lôi tuột bè gỗ xuống hoặc cùng  hút những chiếc thuyền xuống rồi cùng đánh chung tan xác” -> Lối so sánh độc đáo khiến con sông Đà không khác gì những loài thủy quái với những tiếng kêu ghê rợn như muốn khủng bố tinh thần và cực kì uy hiếp con người.

Âm thanh thác nước sông Đà: tác giả Nguyễn Tuân như một nhạc trưởng đang điều khiển một dàn giao hưởng chơi thật hùng tráng với bài ca của gió thác xô sóng đá Ban đầu tác giả mới để cất lên những khúc như đang “oán trách”, “van xin”, “khiêu khích” và “giọng gằn mà chế nhạo”. Thế rồi bất ngờ âm thanh được phóng to hết cỡ, khi các nhạc khí bừng bừng thét lên khúc nhạc của cả một thiên nhiên đang ở đỉnh điểm của một trong những cơn phấn khích mạnh mẽ và man dại: “nó rống lên như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa cánh rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa … rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy sáng bùng bùng…” -> Sự liên tưởng vô cùng phong phú, với âm thanh của thác nước sông Đà được Nguyễn Tuân miêu tả không khác gì âm thanh của một nhiều trận động rừng, động đất hay nạn núi lửa thời tiền sử. Lấy lửa để tả nước, và lấy rừng để tả sông, Nguyễn Tuân quả là đã chơi ngông trong nghệ thuật.

Bằng thủ pháp nhân hóa, nhiều người đọc nhận ra từng sắc diện người trong những hình thù đá vô tri. Nguyễn Tuân cũng đã dùng sức mạnh điêu khắc của ngôn từ để thổi hồn vào từng thớ đá: “Cả một chân trời đá … mặt hòn nào trông cũng “ngỗ ngược”, “nhăn nhúm” và “méo mó” -> Những hòn đá vô tri vô giác nhưng qua cái nhìn của tác giả Nguyễn Tuân chúng mang vẻ du côn của thiên nhiên hoang dại và hung dữ với khi ba trùng vi thạch trận. Trùng vi thạch trận thứ I: Bọn đá đứa thì đã “hất hàm” đứa thì “thách thức”, “mặt nước hò la ùa vào để bẻ gãy cán chèo”, sóng nước “đá trái, thúc gối vào bụng vào bên hông thuyền”….Trùng vi thạch trận thứ II: Sông nước bài binh bố trận ở khắp mọi nơi, tăng nhiều cửa tử, nơi cửa sinh nằm ở phía hữu ngạn… Trùng vi thạch trận thứ III: Khi Sông Đà sắp đặt bên phải bên trái đều là luồng chết, luồng sống ở giữa.

Con sông Đà hiện lên rất hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một của con người”. Nhưng cũng chính từ hình ảnh của con sông ấy lại là kẻ tôn vinh tài năng nghệ thuật tài hoa, sự tài tử và cực kì uyên bác của một ngòi bút số một về thể loại tùy bút của nền văn học Việt Nam.

Nhưng sông Đà không chỉ đã hiện lên trông hung bạo như vậy vì có lúc nó cũng dịu dàng mang trong mình vẻ đẹp đến trữ tình. Dòng sông Đà không chỉ có những “dòng thác hùm beo đang hồng hộc và tế mạnh trên sông đá” mà nó còn là bức tranh thủy mặc cho vương vấn lòng người. Từ trên tàu bay nhìn xuống khi “con sông Đà tuôn dài như một áng tóc trữ tình, đầu tóc, với chân tóc ẩn hiện trong mây trời Tây Bắc bung nở hoa ban và hoa gạo …”

Màu sắc dòng sông thay đổi theo nhiều mùa “Mùa xuân xanh màu ngọc bích”, khác với sông Gâm, dòng sông Lô “màu xanh canh hến”. Mùa thu nước sông “lừ lừ chín đỏ như da mặt một người đã bầm đi vì rượu bữa …” -> Sông Đà mỗi mùa mang một vẻ đẹp riêng, sự quyến rũ và tình tứ.

Đến với sông Đà, hăm hở, sự say mê đến nỗi tác giả như thấy mình như đang “sắp đổ ra sông Đà”. Nguyễn Tuân nhìn sông Đà cũng như một cố nhân với những cảnh quan hai bên bờ cực kỳ gợi cảm: lá non nhú trên những nương ngô, như những con hươu “ngẩng đầu nhung khỏi áng cỏ sương” … Dòng sông Đà cũng như gợi những nỗi niềm sâu thẳm trong lịch sử đất Việt là: “Bờ sông hoang dại như một bờ tiền sử. Bờ sông hồn nhiên như một nỗi niềm cổ tích tuổi xưa… sự lặng tờ “như từ Lí, đời Trần, đời Lê”.

Nguyễn Tuân thật say mê đã miêu tả dòng sông với tất cả sự tinh tế của cảm xúc, và bằng một tình yêu thiết tha thiên nhiên của  đất nước. Lòng ngưỡng mộ, trân trọng, nâng niu tự hào về một dòng sông, với một ngọn thác, một dòng chảy đã tạo nên những trang văn đẹp hiếm có tác giả  Nguyễn Tuân xứng đáng là một cây bút tài hoa bậc nhất của nền văn học của Việt Nam.

Phong cách Nguyễn Tuân độc đáo và phong phú khi ở tùy bút “Người lái đò sông Đà” chúng ta thấy phong cách giá trị của chính ông  đã thể hiện rõ nhất là sự nhọn sắc của giác quan nghệ sĩ đi đôi với cả một kho chữ nghĩa giàu có và đầy đủ màu sắc, lối văn rất mực tài hoa. Dòng sông Đà “hung bạo và trữ tình” chảy mãi trong khi dòng văn học nước nhà như cả niềm yêu mến và tự hào về cỏ cây sông núi quê hương của tác giả Nguyễn Tuân.

Phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo (mẫu 2)

Phân tích hình tượng con Sông Đà trữ tình thông qua hình ảnh con Sông Đà hung bạo hay

Nói đến tác giả Nguyễn Tuân là nói đến một nhà văn ưa cảm giác mạnh. Với Nguyễn, đã là đẹp thì phải đẹp tuyệt mĩ, đã là dữ dội phải dữ dội đến sự khác thường, đến cùng tột đỉnh. Ông không thích những gì tầm thường. Con sông Đà đáp ứng được cả hai xúc cảm của Nguyễn Tuân vì khi con sông Đà mang trong mình hai tính cách trái ngược thế nhưng thống nhất với nhau. Ở phần thượng lưu, với con sông vô cùng hung bạo và dữ dội.

Sự hung bạo của Đà giang đã được nhà văn Nguyễn Tuân thể hiện một cách rất tài tình trong thiên tùy bút này. Sông Đà hung bạo và lắm thác nhiều ghềnh:

“Đường lên Mường Lễ bao xa

Trăm bảy cái thác, trăm ba cái ghềnh”

Sự hung bạo ấy còn được thể hiện qua những dòng chảy ngỗ ngược của nó: “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu”, với một dòng chảy riêng, không có khuôn mình vào lẽ thường. Như đã nói ở trên, với sông Đà bắt nguồn từ Trung Quốc, xin nhập cả quốc tịch Việt Nam. Nó đã phải trải qua rất nhiều triền núi đá. Vì vậy, ở phần thượng lưu của chính dòng sông Đà có rất nhiều thác dữ, nhiều luồng chết, nhiều vực xoáy… Từ đó, Nguyễn Tuân đã tìm thấy những tính cách hung bạo khác thường của con sông. Nhưng khi xuôi về phần hạ lưu, lòng dòng sông như được mở rộng ra, trong khi con thác không còn nữa, dòng nước trôi êm đềm, hiền hòa qua đôi bờ cỏ cây tươi tốt với sông Đà lại hiện lên vô cùng lãng mạn, thơ mộng, trữ tình. Ngoài ra, Nguyễn Tuân cũng nhìn thấy sự hung bạo của con sông Đà không chỉ tập trung ở thác dữ, ở luồng chết, ở những vực xoáy. Ông còn nhìn thấy sự hung bạo ấy ở nhiều những quãng sông huyền bí, hoang vu đặt giữa điệp trùng của chính núi rừng Tây Bắc.

Cái hùng vĩ, sừng sững của dòng sông Đà được thể hiện ngay ở cảnh đá bờ sông: “đá bờ sông, dựng vách thành và mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời. Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như cả một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách còn có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia. Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, có khi đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đứng ở trên hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy cỡ nào vừa tắt phụt đèn điện”.

Cảnh đá bờ sông được miêu tả dựng vách thành, với sự so sánh và liên tưởng khá độc đáo khiến con sông Đà hiện ngay ra trước mắt người đọc như thành quách sừng sững, đã đang đứng án ngữ ngay trước mặt những du khách khi đặt chân đến đây. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, nhà văn Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm của dòng sông, một nơi hẹp như thế mà lưu tốc dòng nước vốn đã nhanh bây giờ lại xiết hơn nữa. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe ấy thì tiến cũng không được, lùi cũng không xong chỉ chờ sóng nước và đá đập tan xác mà thôi.

Nguyễn Tuân cho người đọc cảm cũng nhận bằng trực cảm như chính mình được lái đò qua quãng sông hẹp với những vách đá đã dựng đứng hai bên. Cái lạnh rợn người được so sánh như ta đang đứng giữa mùa hè mà lại ngột ngạt bởi cái chật hẹp, tối đến bất ngờ và sâu thăm thẳm như đứng ở dưới như một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện. Một câu văn tràn dòng với như những liên tưởng của liên tưởng cho thấy sự tài hoa và uyên thâm trong khi việc sử dụng ngôn ngữ của Nguyễn Tuân.

Cũng như đá bờ sông, thì chính “quãng mặt ghềnh Hát Loóng, dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, rồi cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt bất cứ người lái đò Sông Đà nào cũng tóm được qua quãng ấy”. Bằng kết cấu trùng điệp: nước xô đá, đá xô sóng, có sóng xô gió” tác giả đã làm rõ sự nguy hiểm của con sông hung dữ, và cũng sẵn sàng lấy đi tính mạng bất cứ tay lái nào khinh suất. Không có từ nào trực tiếp khi tả ghềnh đá nhưng người đọc hình dung rõ diện mạo con sông. Quãng dài ghềnh đá nổi trên mặt sông, với nước mạnh xô ghềnh tạo sóng dữ, sóng cuộn trào sinh ra gió thổi rít lên những gùn ghè, gùn ghè quanh năm suốt tháng. Con sông cho đến đây đã trở thành một kẻ thù nguy hiểm của chính con người. Với nghệ thuật nhân hóa, khi con sông như một kẻ thù tính khí thất thường, đã đòi nợ vô duyên cớ không bỏ sót một ai. Ấy mới thấy hết cái hung bạo của khi sông Đà. Sự kết hợp ngẫu nhiên hay có lựa chọn giữa tên địa danh với đặc điểm chung của sông Đà ở quãng sông này? Chỉ biết khi Nguyễn tả luồng gió gùn ghè nơi mặt ghềnh lại nằm chính giữa đúng vị trí Hát Loóng. Đọc tên địa danh mà phải nén hơi, hơi uốn lưỡi như chính như chính mình vừa phải đi qua chỗ nước giữ, với sóng, với đá, và với ghềnh thác của sông Đà.

Những cái hút nước ở quãng Tà Mường Vát phía dưới Sơn La lại càng ghê rợn hơn nữa. “Nước ở đây thở và kêu như cửa cống cái đã bị sặc. Trên mặt cái hút xoáy tít đáy, ở đây cũng đang quay lừ lừ những cánh quạ đàn. Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, chiếc thuyền nào qua cũng trèo nhanh để lướt quãng sông, giống y như là ô tô sang số ấn ga cho nhanh để khi vút qua một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Chèo nhanh và cái tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu, những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót cho dầu sôi vào. Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, con thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến khi mươi phút sau mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới”. Những cái bẫy ghê sợ, chết người! Vẫn là những nghệ thuật so sánh liên tưởng độc đáo kèm theo biện pháp nhân hóa nước cũng biết thở và kêu nghe đã đủ cho nhiều người đọc rùng mình nhưng Nguyễn Tuân không dừng lại ở đó mà tiếp tục thử độ lì trong khi giác quan của người đọc khi so sánh và liên tưởng với cái cửa cống cũng bị sặc nước. Khi dòng chảy siết, nó thở và kêu, nhưng khi kêu như thế nào thì nhà văn lại tiếp tục tả ra những cái hút nước ở độ sâu: cái hút xoáy tít đáy, như cái giếng sâu cho thấy một độ mạnh của dòng nước; với bề rộng: quay lừ lừ như những cánh quạ đàn; rồi những âm thanh: những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào, rồi cuối cùng là độ nguy hiểm: Có những thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, khiến con thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau khi mới thấy tan xác ở khuỷnh sông dưới. Hình ảnh sông Đà đã qua ngòi bút của Nguyễn, có lẽ không chỉ làm những người lái đò qua đây cảm thấy thật rùng rợn mà chính người đọc cũng đã cảm thấy như vừa tự mình chèo thuyền qua quãng sông này mà thử cảm giác. Thế nên khi chèo thuyền mem qua những vực nước sông Đà cần phải chèo nhanh để lướt qua quãng sông, y như là những chiếc ô tô sang số ấn ga cho nhanh để vút qua một một quãng đường mượn cạp ra ngoài bờ vực. Cảm giác lạnh người và như rợn tóc gáy vì câu văn tác động mạnh mẽ vào sự trực cảm của người đọc.

Cho cảm giác thật đến từng mi-li-mét và nhà văn sử dụng trường liên tưởng trùng điệp. Khi nhập vào vai một anh thợ quay phim táo tợn khi muốn truyền cho người đọc cảm giác lạ đã dũng cảm ngồi vào trong một chiếc thuyền thúng rồi thả mình và thuyền văng xuống cái hút của nước sông Đà. Nhìn từ đáy cái hút nước ấy nhìn lên vách thành hút chênh nhau đến vài như sải tay. Người xoay theo thuyền cả thuyền, người, máy ảnh quay tít rồi nhìn lên nước sông Đà trong cái hút ấy làm bằng một màu xanh ngọc bích của một khối pha lê đúc đã dày như sắp vỡ tan ụp vào cả người quay lẫn người xem, rồi khiến ai cũng như đang khiếp hãi để ngồi ghì lấy cái mép lá rừng vừa bị cho đi vào cái cốc pha lê mà quay tít như vừa rút ra cái gậy đánh phèn. Liên tưởng của liên tưởng để người đọc cũng có thể cảm nhận rõ nhất. Phải có sự am hiểu về kiến thức trong khi lĩnh vực điện ảnh thì Nguyễn mới có thể viết được những câu văn chính như thế. Câu chữ như đang nở hoa trên những dòng sông Đà và trên trang văn của Nguyễn Tuân.

Tiếng thác réo nghe càng ghê sợ! “Như là oán trách gì, rồi lại như là van xin, rồi lại như là khiêu khích, với giọng gằn mà chế nhạo. Tiếng thác rống như tiếng một ngàn con trâu mộng đang lồng lộn giữa nơi rừng vầu rừng tre nứa nổ lửa, đang phá tuông rừng lửa, rừng lửa cùng gầm thét với đàn trâu da cháy cũng bùng bùng”. Nghệ thuật so sánh, nhân hóa tài ba cùng với những liên tưởng “rất đắt”, Nguyễn Tuân đã cho thấy một cảnh tượng thác nước thật hùng vĩ, nguy hiểm tận độ. Lần đầu tiên trong thơ văn có người lại dùng lửa để được miêu tả nước, hai nguyên tố có sức hủy diệt rất lớn lại luôn tương khắc với nhau, có nước thì cũng không có lửa, ngược lại, có lửa thì không có nước. Vậy mà Nguyễn Tuân đã làm được một điều đó như một nghệ sĩ bậc thầy! Trước mắt người đọc là cả một rừng vầu, tre nứa khi hàng ngàn cây đang bị đốt cháy và phát ra những tiếng nổ nhưng chưa hết, trong khu rừng vầu, rừng tre đang cháy lấy lại được thả vào đó hàng ngàn con trâu mộng to khỏe, nên khi da của chúng bị đốt cháy và khi chính nóng thì chúng sẽ lồng lộn mà phá tan rồi tìm đường thoát thân. Khi chạy, nó đã va đập mạnh vào những cây tre, cây nứa tạo nên những tiếng nổ lớn, khi đạt đến liên hoàn như âm thanh vang la não bạt, kinh thiên động địa. Hình ảnh của Nguyễn Tuân tác động mạnh mẽ lên hệ thần kinh người đọc để mang đến cảm giác chân thực và đầy sống động nhất. Con sông ấy như một kẻ lắm mưu, có nhiều kế để khiêu khích người lái đò. Nó biết: oán trách, van xin, khiêu khích, với giọng gằn mà chế nhạo. Bộ mặt và tâm địa của một người xấu xa, lắm mưu, nhiều kế và kẻ thù số một của con người.

Phối hợp với cơn sóng nước với tiếng thác ầm ầm là “sóng bọt đã trắng xóa của cả một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn sẽ mai phục hết trong lòng sông. Mặt hòn đá nào trông cũng ngỗ ngược, khi hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó hơn cả cái mặt nước chỗ này”. Sông Đà đã giao việc cho đến khi mỗi hòn, để chúng phối hợp lại thành ba trùng vi thật sự nguy hiểm. Khi miêu tả thạch trận đá tác giả đã vận dụng rất nhiều kiến thức trong những lĩnh vực quân sự, thể thao để làm rõ đối tượng cùng miêu tả.

Trùng vi thứ nhất: Sông Đà đã bày ra năm cửa trận, có bốn cửa tử, một cửa sinh, cửa sinh nằm lập lờ ở phía tả ngạn sông. Hàng tiền vệ, có hai hòn canh một cửa đá cũng trông như là sơ hở, thực chất chúng đóng vai trò dụ chiếc thuyền vào khi tuyến giữa. Ở trùng vi thứ nhất này sóng nước đóng vai trò chính đến khi đạt tiêu diệt chiếc thuyền. Vừa vào trận địa, chúng tấn công chiếc thuyền tới tấp đó là: “Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, rồi hùa vào mà bẻ gãy cán chèo võ khí trên cánh tay mình. Sóng nước như thể quân liều mạng vào sát nách mà đá trái mà cũng thúc gối vào bụng và hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên nước bám lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra đên giữa trận nước vang trời thanh la não bạt. Sóng thác đã đánh đến miếng đòn hiểm thật độc nhất, cả cái luồng nước vô sở bất chí ấy bóp chặt lấy hạ bộ của  người lái đò”. Trận chiến đầu, sóng nước là tuệ binh mà chính con sông tung ra để thử thách người lái đò. Nhưng bằng sự mưu trí, dũng cảm, và  ông lái đã vượt qua dễ dàng.

Vượt qua trùng vây thứ nhất, ông lái đò phải đương đầu với trùng vi thứ hai: “Tăng thêm nhiều cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, và cho đến cửa sinh lại bố trí lệch qua phía bờ hữu ngạn. Dòng thác hùm beo hồng hộc tế mạnh trên sông đá đánh khuýp quật vu hồi với chiếc thuyền”. Tại trận chiến đánh giáp lá cà này, chúng quyết sinh quyết tử với chính ông lái đò. Khi chiếc thuyền đã vượt qua, khi bọn sóng nước cửa tử “vẫn không ngớt khiêu khích, cho dù mặc dầu cái thằng đá tướng đứng chiến ở cửa vào đã tiu nghỉu cái mặt xanh lè thật thất vọng”. Bọn đá, sóng nước cũng dở những món đòn hiểm độc và tinh vi nhất!

Đến trùng vi thứ ba: Ít cửa hơn, khi bên phải bên trái đều là luồng chết cả. Cái luồng sống ở chặng ba này cũng sẽ lại ở ngay giữa bọn đá hậu vệ của con thác. Tại đây những boongke chìm và pháo đài đá nổi ở đầu chân thác phải đánh tan chiếc thuyền. Làm ta liên tưởng đến một trận đấu bóng quyết liệt cùng chiếc thuyền như một cầu thủ phải phóng thẳng, chọc thủng cửa giữa,vút, cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, và như một mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước, và vừa xuyên được vừa tự động lái được lượn được, tiến về phía khung thành và đến cuối cùng đã hết thác. Trận bóng đã thắng lợi về phe người lái đò tài ba với những kĩ năng  “tay lái ra hoa”.

Con Sông Đà như một loài thủy quái, rất hung hăng, bạo ngược biết bày thạch trận, thủy trận hòng tiêu diệt thuyền bè trên dòng nước, cả khi một thứ thiên nhiên Tây Bắc với “diện mạo và tâm địa một thứ đã cùng kẻ thù số một”. Con sông mà “hằng năm và đời đời kiếp kiếp làm mình làm mẩy đối với con người Tây Bắc và phản ứng giận dỗi sự vô tội vạ với người lái đò Sông Đà”. Chẳng thế mà con sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại Sơn Tinh và Thủy Tinh “Núi cao sông hãy còn dài – Năm năm báo ân oán đời đời đánh ghen.

Viết về Đà giang, ngòi bút của tác giả Nguyễn Tuân vô cùng phóng túng, thoải mái bởi “Người Lái Đò Sông Đà” được viết bằng nhiều thể loại tùy bút. Ông chẳng khác nào một nhà quay phim lão luyện cũng có khi ống kính của nhà văn tiếp cận con sông Đà từ phía viễn cảnh. Có đôi lúc, đối với ống kính của nhà văn lia vào để quay cận cảnh từng quãng sông hẹp, sự cắt từng đoạn sông để mô tả cái sự hung bạo của những đoạn sông với hình ảnh “đá bờ sông, rồi dựng vách thành, mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có gió mặt trời.” Thậm chí có những đoạn “vách đá thành chẹt lòng Sông Đà cũng như một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném hòn đá qua bên kia vách khi có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia.”

Viết về con sông Đà hung bạo, tác giả cũng sử dụng những câu văn rất ngắn, huy động chủ yếu kiến thức võ thuật và với quân sự để miêu tả sự vận động của dòng nước. Ông cũng cảm nhận con sông bằng nhiều giác quan cũng để kích thích trí tưởng tượng của độc giả.

Ở đây, chúng ta thấy xuất hiện những câu văn rất ngắn gồm toàn thanh trắc với hơn 300 động từ mạnh cùng kết cấu điệp trùng miêu tả của sự khẩn trương, gấp gáp của nước, của đá, của sóng, của gió. Thể hiện rõ nhất đó là đoạn mặt ghềnh Hát Loóng: “dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió, đã cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm như lúc nào cũng đòi nợ xuýt như bất cứ người lái đò Sông Đà nào tóm được quả đấy.” Ta còn thấy Nguyễn Tuân tập trung vào miêu tả sự hung bạo của Đà giang hút nước với cách liên tưởng vô cùng táo bạo. Đó là đoạn Tà Mường Vát ở phía dưới sông La khi: “Có những con thuyền đã bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, đã bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở chính khuỷnh sông dưới.” Thêm vào đó, Nguyễn Tuân còn nhìn thấy được sự hung bạo ở mùa lụt của con sông Đà. Mùa lụt của sông Đà vẫn còn có cái ngấn nước ở cổng châu Quỳnh Nhai. Ngày lụt sông Đà, xác hươu, xác nai bằng gỗ Chò Vảy, Chò Hoa trôi lềnh bềnh bên trên mặt sông. Nguyễn Tuân ví lúc này dòng sông Đà cũng chẳng khác nào “kẻ thù số một” của người dân Tây Bắc. Khi hung bạo thì cực kì nguy hiểm, và tâm địa độc ác đến tột cùng.

Con sông Đà hung bạo đâu đã bởi thiên nhiên gây ra với: thác dữ, những luồng chết, vực xoáy mà chính Nguyễn Tuân còn thấy đó là do con người. Đó chính là bọn thổ ti lang tạo đã đắp bến chia ngăn dòng sông Đà, đã khiến con sông trở nên trái tính, trở thành kẻ thù của những người dân Tây Bắc. Đó còn là bọn thực dân Pháp đóng đồn bốt ở cả hai bên bờ sông khiến Đà giang trở nên càng hung bạo. Rõ ràng, là con sông Đà mang cốt cách của người dân Tây Bắc. Nhìn rộng ra, chúng ta thấy những con sông hầu như đã đều mang nét đẹp văn hóa vùng miền nơi nó đi qua.

Nếu “sông Hương” của tác giả Hoàng Phủ Ngọc Tường mang vẻ đẹp trầm mặc của cố đô và người dân Huế thì chính con sông Đà lại là biểu tượng, lại mang cái văn hóa của nhiều những người dân Tây Bắc. Như vậy, có thể khẳng định Đà giang qua ngòi bút của tác giả Nguyễn Tuân hiện lên dữ dội đến khác thường, tột đỉnh, thể hiện rất rõ nhiều phong cách rất riêng của Nguyễn Tuân – một phong cách rất chi “ngông”.

Phân tích hình tượng con Sông Đà hung bạo (mẫu 3)

Bài Phân tích hình tượng trữ tình của Sông Đà với vẻ bề ngoài hung bạo, dự tợn của học sinh chuyên văn:

Trong lịch sử nhân loại, khi mỗi dòng sông lớn đều bồi đắp nên một nền văn minh. Trong địa hạt văn học Việt Nam, dòng sông đều gắn với một phong cách nghệ thuật. Ta đã được chiêm ngưỡng một dòng sông mênh mông, hoang vắng, với nỗi buồn man mác, thấm đẫm nỗi nhớ nhà trong “Tràng giang” của Huy Cận; hay cả một khung cảnh đìu hiu, cách biệt của nơi thiên nhiên sông nước Kinh Bắc trong “Bên kia sông Đuống” của tác giả Hoàng Cầm. Nếu những bài thơ trên khi chỉ là điều kiện, là khách thể để các nhà thơ này bày tỏ lòng mình thì đến với Người lái đò sông Đà, người đọc mới cũng đã cảm nhận được rõ nét về một tác phẩm viết về cả một dòng sông thực sự. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, với hình ảnh dòng sông “độc bắc lưu” hiện lên với những vẻ đẹp rất độc đáo. Trên cái nền thiên nhiên kỳ vĩ ấy, Nguyễn Tuân cũng đã làm nổi bật lên vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ trong khi những người lao động bình thường mà ông luôn gọi là “chất vàng mười đã qua thử lửa” bấy lâu mình vẫn khao khát và kiếm tìm.

“Người lái đò sông Đà” đã  được sáng tác vào năm 1958 và được in vào tập “Sông Đà” vào năm 1960. Trong chuyến đi gian khổ và hào hứng tới miền Tây Bắc rất xa xôi, rộng lớn không chỉ thỏa mãn khát khao xê dịch mà chủ yếu là tìm kiếm chất vàng của núi rừng thiên nhiên Tây Bắc và thứ vàng mười cũng đã qua thử lửa nơi tâm hồn của con người

Mở đầu bài là lời đề từ “Chúng thủy giai đông tẩu – Đà giang độc bắc lưu” cũng đã khẳng định nét độc đáo của dòng sông Đà: Mọi con sông đều chảy về hướng Đông, chỉ có những con sông Đà chảy theo hướng Bắc khẳng định cá tính độc đáo của Nguyễn Tuân trong khi dòng sông văn chương: Một nhà văn có ý thức sâu sắc về cái tôi cá nhân, về bản ngã, cũng về cá tính riêng trong sáng tạo nghệ thuật.

Nguyễn Tuân không khỏi làm cho ta ngỡ ngàng trước sự hùng vĩ, dữ dội của con Sông Đà. Cảnh đá bờ sông dựng vách thành với những vách đá cao vút, dựng đứng “Mặt sông chỗ ấy chỉ lúc đúng ngọ mới có mặt trời”. Lòng sông nhỏ hẹp, đã lưu tốc dòng chảy lớn “Có vách đá thành chẹt lòng Sông Đà như là một cái yết hầu. Đứng bên này bờ nhẹ tay ném một hòn đá qua bên kia vách. Có quãng con nai con hổ đã có lần vọt từ bờ này sang bờ kia đã  “Ngồi trong khoang đò qua quãng ấy, đang mùa hè mà cũng thấy lạnh, cảm thấy mình như đã đang đứng ở hè một cái ngõ mà ngóng vọng lên một khung cửa sổ nào trên các tầng nhà thứ mấy nào vừa tắt phụt đèn điện”. Bằng nghệ thuật so sánh độc đáo, tác giả Nguyễn Tuân đã cho thấy sự nguy hiểm, bí ẩn của chính dòng sông. Một nơi lòng sông nhỏ hẹp, lưu tốc dòng chảy lớn với như những vách đá cao vút, vững chãi giờ đây đang trở nên nguy hiểm của khổ cực vô cùng. Cứ thử tưởng tượng con thuyền nào mà kẹt vào cái khe đấy thì tiến không được, lùi cũng không xong, chỉ chờ sóng nước và đá đập cho đến khi tan xác mà thôi.

Quần thể thiên nhiên: nước, sóng, gió và đá sông Đà cũng như “Lại như quãng mặt ghềnh Hát Loóng dài hàng cây số nước xô đá, đá xô sóng và sóng xô gió, cuồn cuộn luồng gió gùn ghè suốt năm…”. Thủ pháp nghệ thuật tăng tiến nơi khiến “nước xô đá, đá xô sóng, sóng xô gió” như mô phỏng với hình ảnh những con sóng dữ cuồn cuộn chồm lên nhau theo chiều ngang, và vút lên cao theo chiều dọc rồi đổ ập xuống, cuồn cuộn ghê rợn lên bên trên mặt ghềnh.

Từ trên nhìn xuống mặt sông chính là: những cái hút nước “như những cái giếng bê tông thả xuống sông để chuẩn bị làm móng cầu” và cả khi “những cái hút xoáy tít đáy”. Từ dưới lòng sông nhìn ngược lên: “thành giếng xây bằng nước sông xanh ve một áng thủy tinh khối đúc dày, với khối pha lê xanh như sắp vỡ tan cụp vào”.

Những âm thanh ghê rợn trong khi “Nước thở và kêu như cửa cống cái bị sặc”, “những cái giếng sâu nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào” còn khủng bố tinh thần con người: “thở và kêu như cửa cống cái bị sặc” với “nước ặc ặc lên như vừa rót dầu sôi vào”, sẵn sàng nhìn mình nhấn chìm bất kì con thuyền nào không kịp chèo nhanh hay tay lái không vững, hoặc có khi bất kì bè gỗ nào vô ý khi đi qua chúng. “Không thuyền nào dám men gần những cái hút nước ấy, khiến thuyền nào cũng trèo nhanh để lướt quãng sông”, “chèo nhanh và tay lái cho vững mà phóng qua cái giếng sâu” và “nhiều bè gỗ rừng đi nghênh ngang vô ý là những cái giếng hút ấy nó lôi tuột xuống”, “có những thuyền bị cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi, rồi bị dìm và đi ngầm dưới lòng sông đến mươi phút sau mới thấy tan xác ở nơi khuỷnh sông dưới”. Ám ảnh, đã đe dọa con người, những âm thanh man rợ của sông Đà gợi liên tưởng đến một loài động vật vô cùng hung dữ, đang cuồng loạn tìm lối thoát thân. Hùng vĩ, cùng với sự choáng ngợp bởi một chân trời đá với những bọt nước trắng xóa mờ đi bên trên mặt sóng“. Tới cái thác rồi cùng ngoặt khúc sông lượn, sóng bọt đã trắng xóa cả một bầu chân trời đá”.

Tác giả đã dùng kiến thức về phía quân sự, võ thuật, thể thao, thủ pháp nghệ thuật nhân hóa, thậm xưng cuối cùng để làm nổi bật cái nham hiểm, xảo quyệt của sông Đà. Dưới ngòi bút của  tác giả Nguyễn Tuân, con sông Đà hung bạo, tàn ác không khác gì “kẻ thù số một” của con người cũng  chẳng thế mà sông Đà được gắn với câu đồng dao thần thoại của hai vị Sơn Tinh Thủy Tinh đó là: “Núi cao sông hãy còn dài/ Năm năm báo oán đời đời đánh ghen”.

Tham khảo thêm: