Phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà gồm dàn ý và những bài văn mẫu hay nhất. Qua đó giúp các em học sinh lớp 12 có thêm nhiều những gợi ý tham khảo, sở hữu bài viết một cách trọn vẹn vừa ăn điểm nhờ tính sáng tạo và những màu sắc cá nhân riêng khi làm bài để đạt được kết quả cao nhất trong kì thi THPT Quốc gia 2022.
Hình tượng người lái đò sông Đà chính là một trong những chủ đề hơi khó đối với nhiều bạn học sinh. Chính vì vậy việc triển khai và sắp xếp nội dung ý tưởng phải thật hợp lý, rất mạch lạc. Nếu như các bạn vẫn còn đang băn khoăn chưa biết cách nên bắt đầu từ đâu, thì hãy tham khảo những bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà trong bài viết dưới đây nhé. Với những bài phân tích hình tượng người lái đò sông Đà giúp các bạn rèn luyện, nâng cao kiến thức và làm tốt hơn trong các bài kiểm tra tại lớp, các bài thi học kì và thi học sinh giỏi.
Tham khảo thêm:
- Phân tích bài Người lái đò sông Đà
- Mở bài Người lái đò sông Đà
- Kết bài Người lái đò sông Đà
- Soạn bài Người lái đò sông Đà
1. Dàn ý phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà chi tiết
a) Mở bài phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà
– Nguyễn Tuân là một tác giả tài hoa và uyên bác, luôn kiếm tìm cái đẹp. Trước cách mạng ông tìm kiếm vẻ đẹp trong quá khứ, nơi khi cách mạng thành công ông tìm kiếm vẻ đẹp ngay trong một cuộc sống hiện tại. Người lái đò sông Đà là tùy bút tiêu biểu cho những công cuộc sáng tác sau cách mạng của ông.
– Ông lái đò chính là chất vàng mười mà đã được thử lửa mà Nguyễn Tuân tìm kiếm, người anh hùng trong nơi thời kì xây dựng chủ nghĩa xã hội. Liên hệ hình ảnh người anh hùng trong thơ ca của Nguyễn Tuân trước cách mạng (Huấn Cao – Chữ người tử tù)
b) Thân bài phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà
– Công việc: lái đò trên sông Đà, đã hằng ngày đối diện với thiên nhiên hung bạo.
– Về lai lịch: tác giả xóa mờ xuất thân và tập trung miêu tả ngoại hình để ngợi ca những con người vô danh âm thầm cống hiến là: “tay lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, … chất mùn”, đó là ngoại hình khỏe khoắn của con người lao động luôn luôn gắn bó với nghề
– Là người có lòng dũng cảm, tình yêu nghề là: “giữ mái chèo, nén vết thương, hai chân kẹp chặt lấy cuống lái”
– Có thể liên hệ đến hình ảnh Huấn Cao chính người anh hùng trong quan niệm của Nguyễn Tuân trước cách mạng để dẫn dắt sang một hình tượng ông lái đò.
– Công việc: lái đò trên sông Đà, đã hằng ngày đối diện với con thủy quái hung bạo.
– Là người từng trải, tìm hiểu biết và thành thạo trong nghề lái đò: “trên sông Đà ông xuôi ngược hơn một trăm lần”, “nhớ tỉ mỉ … như luồng nước”, “sông Đà đối với ông lái đò ấy như một thiên anh hùng mà chính ông đã thuộc … xuống dòng”, …
– Là người mưu trí dũng cảm với bản lĩnh và tài ba:
- Ung dung đối đầu với thác dữ dội “nén đau giữ mái chèo, tỉnh táo chỉ huy bạn chèo …” để phá trùng vi thạch trận thứ nhất,
- Ông lái đò đã “không chút nghỉ tay, nghỉ mắt phá luôn vòng vây thứ hai và đổi chiến thuật, ông cũng ”“nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá, ông đã thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước”, với động tác điêu luyện “cưỡi đúng ngay trên bờm sóng, với phóng thẳng thuyền vào giữa thác …”
- Là người nghệ sĩ tài hoa là: ưa những khúc sông nhiều ghềnh thác, không thích lái đò trên khúc sông bằng phẳng, và coi việc chiến thắng “con thủy quái” là chuyện thường: sau khi vượt thác nhà đò đốt lửa nơi nướng cơm lam và toàn bàn về chuyện cá anh vũ, cá dầm xanh, …
– Khái quát về phong cách nghệ thuật của nhà văn Nguyễn Tuân: là nhà văn tài hoa uyên bác, suốt đời đi tìm cái đẹp, luôn luôn khám phá thế giới ở bình diện văn hóa, thẩm mỹ, luôn miêu tả con người trong vẻ đẹp tài hoa nghệ sĩ.
c) Kết bài phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà
– Nêu cảm nhận về hình tượng nhân vật ông lái đò: chính là đại diện cho con người lao động Tây Bắc trong giai đoạn xây dựng chủ nghĩa xã hội khi là con người vừa có phẩm chất anh hùng vừa tài hoa nghệ sĩ, với chứa đựng chất vàng mười đã qua thử lửa.
– Người lái đò sông Đà là tùy bút rất xuất sắc miêu tả chân thực vẻ đẹp vừa hung bạo vừa trữ tình của thiên nhiên Tây Bắc, giữa cái nền thiên nhiên nổi bật lên là những vẻ đẹp của những người lao động bình dị.
2. Bài văn mẫu phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà
Phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà (mẫu 1)
Bài văn mẫu phân tích hình ảnh Người Lái Đò Sông Đà đạt điểm 9+
Nguyễn Tuân là một trong những gương mặt rất tiêu biểu của nền văn học Việt Nam hiện đại. Mỗi tác phẩm của ông là một bài ca về cái đẹp của mỗi con người, của cuộc sống với tư tưởng, với tình cảm gắn bó quê hương. Nguyễn Tuân được người đọc đặc biệt chú ý đến phong cách nghệ thuật rất riêng và rất độc đáo của ông. “Người lái đò Sông Đà”, đó là một bài tùy bút, cũng chính là một bài thơ bằng văn xuôi thể hiện rõ nhất về những nét tiêu biểu về phong cách đó.
“Người lái đò sông Đà” trước hết đó là một tác phẩm viết về một con người và con sông. Nhưng dưới ngòi bút đầy hứng thú và thật tài hoa của ông thì mọi cảnh vật thiên nhiên đều trở thành những công trình mĩ thuật, nơi con người đều trở thành những nghệ sĩ điêu luyện của mình.
Bằng sự quan sát tỉ mỉ và khả năng mô tả cùng với kho chữ nghĩa vô cùng phong phú và chuẩn xác của tác giả Nguyễn Tuân đã dựng lên những bức tranh hết sức sống động, với những hình tượng kì vĩ giàu sức hấp dẫn trong thiên tùy bút rất độc đáo như này.
Người lái đò trên sông Đà được Nguyễn Tuân đã được nói đến trong tác phẩm là một ông già 70 tuổi đã dành một phần lớn đời mình cho nghề lái đò dọc sông Đà. Đó là một người lái đò lão luyện là: “Trên dòng sông Đà, ông xuôi, ông ngược hơn một trăm lần rồi chỉnh tay giữ lái độ sáu chục lần…” với trong thời gian hơn chục năm làm cái nghề đầy nguy hiểm và gian khổ này.
Đây là một con người từng trải, hiểu biết và rất thành thạo trong nghề lái đò, đã đạt đến trình độ “bằng cách lấy mắt và nhớ tỉ mỉ như đóng đanh vào lòng đất tất cả những luồng nước của tất cả những gì con thác hiểm trở”. Nguyễn Tuân tiếp tục bày tỏ sự khâm phục của chính mình đối với con người này: “Sông Đà, với ông lái đò ấy, như một trường thiên anh hùng đã ca mà ông đã thuộc đến cả những dấu chấm than, chấm câu và cả những câu từ xuống dòng”. Thật là một cách so sánh là “rất văn chương” đầy thú vị và cũng “rất là Nguyễn Tuân”.
Hình tượng người lái đò với những câu như “cái đầu bạc quắc thước ấy đặt trên một thân hình cao to gọn quánh như thể chất sừng, chất mùn” và những cánh tay vẫn là cánh tay của một “chàng trai” và “trẻ trắng quá”, Nguyễn Tuân đã gọi đó là một thứ “vàng mười”. Ồng đã đứng trước những thách thức của những con sông Đà với thế lực của những bãi đá ghê gớm, những cạm bẫy đầy những kinh hoàng: khúc sông lượn, thấy sóng bọt trắng xóa của một chân trời đá. Đá ở đây từ ngàn năm vẫn mai phục hết trong lòng sông, với hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở những quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, mỗi lần có chiếc nào nhỡ vào đường ngoặt sóng chính cũng là một số hòn bèn nhổm cả dậy để vồ lấy thuyền”.
Một mình một thuyền ông cũng đã giao chiến như một dũng sĩ: “… hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên ra khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước hò la vang dậy quanh mình, và ùa vào mà bẻ gãy cán chèo, võ khí trên cánh tay mình”, và sóng nước “thúc vào gối bụng và bên hông thuyền. Có lúc chúng đội cả thuyền lên rồi nước bám và lấy thuyền như đô vật túm thắt lưng ông đò đòi lật ngửa mình ra giữa những trận nước vang trời thanh la não bạt”. Có lúc tưởng như ông lái đò bị nhấn chìm phía dưới dòng sông… Các miêu tả chân thực và táo bạo này cho thấy một sức mạnh ghê gớm của những dòng thác hung dữ đối với con người, chỉ cần lóa mắt, lỡ tay một chút là chính phải trả giá bằng sinh mạng của mình.
Nhưng chỉ dũng cảm và gan dạ chưa đủ, và mà cái quan trọng hơn là tài nghệ của người cầm lái để lái con đò đến khi mức điêu luyện và nghệ thuật. Tác giả đã so sánh người lái đò sông Đà với người lái xe lao xuống dốc đèo tuy rất nguy hiểm nhưng người lái xe đã còn có phanh chân, phanh tay, có tiến lên, lùi lại “còn như cái thuyền mà đã lao xuống thác thì chả có cái phanh nào cả, chỉ có cả lao đi chứ không lùi lại, vì không lao trúng tim luồng nước thì thuyền quay ngang mà ụp, chứ không có lùi gì cả…” và vẫn bằng phương pháp so sánh, nhưng với những hình ảnh rất táo bạo, khiến tác giả đã tả sông Đà thiên biến vạn hóa, mỗi chỗ như có một cái bẫy nguy hiểm riêng, đòi hỏi người lái đò phải có một những cách ứng phó riêng. Có chỗ thì nước sông đã “reo lên như đun sôi một trăm độ muốn hất tung cả một cái thuyền đang phải đóng vào như một cái nắp ấm nước đang sôi khổng lồ”. “Có luồng nước đi lầm vào thì chết ngay”. Lại có khi những “hút nước” xoáy sâu như lòng giếng “cái hút nó hút xuống, thuyền trồng ngay cây chuối ngược rồi vụt biến đi”…
Thật là một dòng sông Đà đầy những hiểm trở, đầy gian nan cho con người. Thế nhưng, “ông lái đò cố nén vết thương, với hai chân vẫn kẹp chặt lấy cái cuống lái.. ”. Mặc dù mặt “méo bệch đi” vì những đòn nguy hiểm, “nhưng trên cái thuyền sáu bơi chèo, vẫn nghe rõ tiếng chỉ huy ngắn gọn tỉnh táo của những người cầm lái”.
Rõ ràng qua cách miêu tả đến tột cùng của sự dữ dội của con sông, Nguyễn Tuân nhắm đến một mục đích lớn là: ca ngợi sự dũng cảm, tài trí của con người, ca ngợi sự chiến thắng vĩ đại của ông lái đò, cũng đã vượt bao thác ghềnh, sóng to gió cả đưa con đò về đến bến bình yên và không phải chỉ một lần, mà hàng trăm lần, suốt 15 năm làm người lái đò vượt sông Đà. Cuộc đọ sức giữa con người đã chiến thắng; đã trở về cuộc sống thanh bình: “thế là hết thác. Dòng sông vặn mình vào một cái bến cát có hàng lạnh (…). Sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong hang đá, với nướng ống cơm lam…”
Cảm hứng lãng mạn đậm đà trong sáng đã lan tỏa trong từng câu văn tả thực, tạo cho đoạn văn một sức lôi cuốn không thể nào cưỡng nổi. Đó là một bài ca về lao động, về với con người lao động.
Sau mười năm làm nghề lái đò, và kể cả sau khi đã thôi nghề vài chục năm, trên ngực người lái đò vẫn luôn còn “bầm tụ” một “củ khoai nâu”, với Nguyễn Tuân, đó cũng là cái hình ảnh rất quý giá của một thứ huân chương lao động siêu hạng”.
Cảm ơn nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã cho chúng ta thưởng thức một công trình nghệ thuật đầy sáng tạo. Ngoài việc cung cấp cho chúng ta những kiến thức về thức về với cuộc sống, về văn hóa và lịch sử địa lí, về ngôn ngữ… cùng với tác phẩm đích thực ấy còn là một khối kiến trúc thẩm mĩ độc đáo, đã giúp ta cảm thụ được cái đẹp một cách sâu sắc. Cái đẹp hùng vĩ của chính thiên nhiên của tạo hóa và đặc biệt là cái đẹp của con người cụ thể, và con người lao động: Người lái đò sông Đà.
Nguyễn Tuân đích thực chính là một nghệ sĩ tài hoa bậc thầy trong việc ngợi ca những con người lao động gian lao nguy hiểm, nhưng đầy những vinh quang.
Phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà (mẫu 2)
Bài phân tích hình ảnh Người Lái Đò Sông Đà cực hay để các bạn tham khảo:
Tuỳ bút “Người lái đò sông Đà” là một tác phẩm đặc sắc của Nguyễn Tuân được in trong tập sông Đà (1960). Viết tùy bút này, tác giả Nguyễn Tuân tự coi mình là người đi tìm cái thứ vàng mười của màu sắc núi sông Tây Bắc và nhất là những cái thứ vàng mười mang sẵn trong tâm trí tất cả trong khi những con người ngày nay đang nhiệt tình gắn bó với những công cuộc xây dựng cho miền Tây Bắc thêm sáng sủa, được vui và vững bền. Chất vàng mười của con người ấy chính là những người lái đò sông Đà. Dưới ngòi bút tài hoa của Nguyễn Tuân, nhiều người lái đò vừa là người anh hùng vừa là người nghệ sĩ tài hoa trong nghề của mình.
Ông lái đò sinh ra và lớn lên bên ven sông Đà, ngay ngã ba sông Đà nên con sông là máu thịt của cả quê hương đã ngấm vào trái tim, khối óc nên ông lái gắn bó, yêu thương và luôn thấu hiểu tường tận, cặn kẽ dòng sông.
Khi Nguyễn Tuân có dịp kiến diện với người lái đò thì cũng là lúc người lái đò ấy đã 70 tuổi, cái tuổi của xế chiều. Ông làm nghề lái đò dọc sông Đà mười năm liền và đã nghỉ đôi chục năm nhưng ấy thế mà ông có ngoại hình thật đặc biệt là ông có thân hình quắc thước sánh như chất sừng, chất mun trông trẻ khỏe khắn quá. Những nét ngoại hình ấy vì đâu mà có, mà phải chăng mười năm trong nghề, dấu ấn chính của công việc đã in đậm trên ngoại hình ông lão là: Tay ông lêu nghêu như cái sào. Chân ông lúc nào cũng khuỳnh khuỳnh, cùng gò lại như kẹp lấy một cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước ở trước mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa khi nào đó trong sương mù. Bả vai của ông có vết củ nâu tròn, cùng dấu tích tì sào của nghề lái đò mười năm liền trên sông nước, vượt qua bao ghềnh thác mà nhà văn Nguyễn Tuân đã ca ngợi là thứ huân chương siêu hạng.
Chỉ bằng vài nét khắc họa tài hoa mà tác giả Nguyễn Tuân đã chạm khắc vào tiềm thức của người đọc một hình ảnh nhân vật chính ông lái đò gần gũi với với môi trường lao động trên sông nước, đã sinh ra trên sông nước và để sống với sông nước. Một con người suốt cả một đời chiến đấu với thác, đá, sóng, nước sông Đà khi để tồn tại và xây dựng quê hương Tây Bắc. Những dòng này được nhà văn viết cùng ra không chỉ để giới thiệu ngoại hình một con người mà còn để ca ngợi với sự gắn bó, yêu quý nghề ở chính con người đó.
Những nét tả ngoại hình của nhà văn đã cho thấy người lái đò thực sự là người từng trải, và thành thạo trong nghề. Nhưng như vậy cũng vẫn là chưa đủ, tác giả Nguyễn Tuân còn cho biết: người lái đò còn là một linh hồn muôn thuở của con sông nước này; ông làm nghề đò đã mười năm liền, trên sông Đà, ông xuôi, với ông ngược hơn một trăm lần rồi, chính tay ông giữ lái độ sáu chục lần…Cứ đọc xong trong thiên tùy bút này sự hung bạo của con sông Đà với thác, nước, sóng và đá mà để lái đò dọc sông Đà là một thử thách thật lớn trong nghiệp đời của ông.
Sự từng trải của những người lái đò còn thể hiện, dòng sông Đà với bảy mươi ba con thác nhưng ông đã lấy mắt mà nhớ rất chi tỉ mỉ như đóng đinh vào lòng tất cả những luồng nước của tất cả những con thác hiểm trở. Hơn thế nữa, sông Đà đối với ông lái đò ấy, cũng như một trường thiên anh hùng ca mà ông thuộc lòng đến cả những cái chấm than, với chấm câu và cả những đoạn xuống dòng. Không phải bỗng dưng mà nhà văn nổi tiếng tài tử mà lại đưa vào trang viết của mình tỉ mỉ các ngọn thác, thời gian đó ông lái đò làm nghề. Phải chi li, cụ thể như vậy mới thấy hết sự từng trải, với sự gắn bó của với nghề đến độ kỳ lạ ở ông lão lái đò. Đấy cũng là cách nhà văn bày tỏ nỗi thán phục của chính bản thân mình về một con người như được sinh ra từ những con sóng, với ngọn thác hung dữ ở sông Đà.
Ông lái đò đã đã từng ngược xuôi trên ghềnh thác sông Đà nhiều năm trong cuộc đời nên ông nắm chắc binh pháp của những thần sông thần đá, và thuộc quy luật phục kích của lũ đá nơi ải nước, và để rồi từ đó mưu trí, dũng cảm vượt qua và chiến thắng thiên nhiên nghiệt ngã nơi để tồn tại, lao động và sáng tạo. Ông lái đò hiện lên khác nào với vị thần Thủy Tinh trong thần thoại Việt Nam, nhưng có điều ông không có phép tiên mà chỉ đơn thuần là khi con người lao động bình dị, đời thường tiêu biểu cho phẩm chất của những người lao động mới trong công cuộc xây dựng một chủ nghĩa xã hội mới ở miền Bắc.
Chỉ từng trải thôi cũng chưa đủ, đối với con sông Đà, khi ai chế ngự được nó đòi hỏi phải có lòng dũng cảm, gan dạ, mưu trí, và thật nhanh nhẹn và cả sự quyết đoán nữa. Nguyễn Tuân đưa nhân vật của mình vào trong những hoàn cảnh khốc liệt mà ở đó, tất cả những phẩm chất ấy được bộc lộ, và nếu không sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình. Nhà văn gọi đây là những cuộc chiến đấu gian lao của người lái đò trên chiến trường sông Đà, trên khi quãng thuỷ chiến ở mặt trận sông Đà. Đó chính là cuộc vượt thác đầy nguy hiểm chết người, đã diễn ra nhiều hồi, nhiều đợt như trận đánh mà chính đối phương đã hiện ra diện mạo và tâm địa của kẻ thù số một.
Vẻ đẹp trí dũng, với sự tài hoa của người lái đò được thể hiện rõ nét nhất trong cuộc đối đầu với những đám đá đang bày binh bố trận trên sông. Ngoặt khúc sông lượn, thấy sóng bọt khi đã trắng xóa cả một chân trời. Đá ở đây ngàn năm vẫn mai phục hết trong dòng sông, nơi hình như mỗi lần có chiếc thuyền nào xuất hiện ở quảng ầm ầm mà quạnh hiu này, và khi mỗi lần có chiếc nào nhô vào đường ngoặt sông là một số hòn bèn nhổm cả dậy vồ lấy thuyền. Với những từ ngữ : mai phục, vồ lấy thuyền khiến cho cơn lũ đá nơi ải nước như những kẻ thù nham hiểm và hung ác. Chúng có thể bất thình lình đã tấn công con người bất cứ khi nào và tai họa sẽ ập đến mà không báo trước. Mặt hòn đá nào cũng trông cũng ngỗ ngược, hòn nào cũng nhăn nhúm méo mó khi hơn cả cái mặt nước chỗ này. Nguyễn đã miêu tả lũ đá ở chính đây mỗi hòn mang một vẻ mặt khác nhau là: hòn thì ngỗ ngược, hòn méo mó, hòn mặt xanh lè, với hòn hất hàm như thách thức… mỗi hòn mỗi dáng vẻ, nhưng nhìn những bộ mặt ấy cũng thì không có chút nào thiện cảm bởi vẻ lạnh lùng, hung ác và thật giữ tợn.
Người đọc như đang phải chứng kiến thạch trận đá trên sông Đà như bày ra một trận địa chiến đấu mà mỗi vị trí và với nhiệm vụ được cân nhắc và tính toán kỹ lưỡng. Sông Đà đã giao việc cho mỗi hòn cũng mới thấy rằng đây là nó bày thạch trận trên sông. Đám tảng hòn chia làm ba hàng chắn ngang trên sông đòi đã ăn chết cái thuyền, một cái thuyền đơn độc không còn biết lùi đi đâu là nơi để tránh một cuộc giáp lá cà có đá dàn trận địa sẵn. Có bọn đá tiền vệ, hậu vệ, khi đá cũng biết mai phục, biết đánh trận. Tất cả gợi lên sự hung tợn và dữ dội, nơi quyết liệt của con sông Đà hung bạo này. Hàng tiền vệ khi: Có hai hòn cánh cửa thoạt nhìn tưởng chúng như sơ hở nhưng thực chất khi đang đóng vai trò dụ cái thuyền tiến sâu vào bên trong. Khi con thuyền đã bị dụ vào trong thì chính nước sóng luồng mới đánh khuýp quật vu hồi lại. Những con thuyền của ông đò đã dễ dàng vượt qua nên tuyến thứ ba là các boongke chìm và pháo đài đá nổi là đã phải đánh tan con thuyền. Cùng với thạch trận đá là sự tiếp ứng, nơi phối hợp của cả sóng nước biết tung ra bao đòn đánh hiểm độc và: khuýp quật vu hồi, đưa ra những đòn độc : đá trái, thúc gối, đội thuyền, túm thắt lưng, đã bóp chặt hạ bộ người lái đò…rồi liên tiếp các đòn trùng điệp là: đánh đòn tỉa, đòn âm, hồi lùng…
Nguyễn Tuân đã cũng sử dụng hàng loạt những động từ mạnh để diễn tả hết sự hung hăng và hiểm nguy của con sông Đà. Nhưng càng hung dữ bao nhiêu thì lại càng tôn lên những vẻ đẹp của ông lái đò bấy nhiêu vì con sống coi như một hình ảnh làm nền cho người lái đò đã hiện lên anh dũng, kiên cường, đầy hiên ngang, kiêu hãnh, hào hoa tìm sự sống như chính trên dòng sông chết. Hay chúng ta gọi là nghệ thuật vẽ mây nẩy trăng và lấy bóng mà lộ được hình.
Trong thạch trận ấy, người lái đò đã hai tay giữ mái chèo khỏi bị hất lên khỏi sóng trận địa phóng thẳng vào mình. Mặt nước thì hò la vang dậy như cũng muốn bẻ gãy cán chèo, vũ khí duy nhất có trên tay ông lái đò. Sóng nước chiến đấu như những kẻ liều mạng, không do dự mà đã xông thẳng vào người lái đò tiến sát nách mà đá trái, thúc gối vào bụng và bên hông thuyền. Khi sông Đà tung ra miếng đòn hiểm độc nhất là nước bám lấy con thuyền như đô vật túm thắt lưng đặng lật ngửa chính mình ra giữa trận nước vang trời thanh la não bạt, khi ông lái đò vẫn không hề nao núng, bình tĩnh, đầy mưu trí như một vị chỉ huy, và đã lái con thuyền vượt qua ghềnh thác. Ngay cả khi bị thương, với người lái đò vẫn cố nén vết thương, hai chân vẫn kẹp chặt lấy cuống lái, và mặt méo bệch như cái luồng sóng đánh hồi lùng, đánh đòn tỉa, đánh đòn âm vào những chỗ hiểm. Đặc biệt trên con thuyền có đến sáu bơi chèo vẫn nghe thấy tiếng chỉ cũng huy ngắn gọn mà tỉnh táo của người cầm lái. “Vậy là phá xong cái trùng vi thạch trận thứ nhất” Trong khi trận đánh người lái đò đã hiện lên thật gan dạ, với sự dũng cảm và đầy sức dẻo dai và một trí tuệ của người chỉ huy con thuyền sáng suốt.
Không một phút giây nghỉ tay, nghỉ mắt, nơi người lái đò phải tiếp tục “phá luôn vòng vây thứ hai”. Ông lái đò đã nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá đã biết ở vòng vây thứ hai con sông đã bố trí tăng thêm nhiều ở cửa tử để đánh lừa con thuyền vào, cửa sinh lại bố trí lệch qua những bờ hữu ngạn. Với vòng vây thứ hai không phải chiến đấu với đá, khi sóng như cửa thứ nhất mà là đương đầu với dòng thác sông Đà. Bằng nghệ thuật liên tưởng rất độc đáo Nguyễn như thấy ông lái đò không phải chèo thuyền vượt thác mà chính là cưỡi lên thác nước sông Đà. Hơn nữa bằng nghệ thuật miêu tả đòn bẩy khiến tác giả đã ví thác sông Đà như một con hổ hung bạo đã vào cuộc chiến sinh tử như với người lái đò. Nên ông lái đã cưỡi lên thác thì phải cưỡi cho đến cùng như cưỡi hổ. Nhằm đúng con sóng mà lướt thì cũng như nắm khi được cái bờm của con hổ để có chỗ bám, chỗ ghì tay. Rồi ông đò ghì cương lái của con thuyền, có khi chắc đôi bàn tay để bám chắc lấy luồng nước mà lái miết một đường vào cửa Sinh. Những con sông thật nham hiểm bởi nó không để chút sơ hở cho con thuyền có lối thoát với luồng nước chứa cửa sinh cũng là chỗ lũ đá đang mai phục. Không chỉ có thế, khiến một bọn thủy quân đang chờ sẵn chỗ ải nước chỉ chờ cho con thuyền đến là xô ra để níu con thuyền vào cửa tử. Nhưng ông đò đã nhớ mặt từng đứa một, khi đứa thì ông tránh để bơi chèo nhanh, đứa thì ông đè sấn lên, và nắm chặt đôi ra để lấy đường tiến. Và cứ như vậy con thuyền đã bỏ qua hết những cửa tử, và mà chỉ nghe bên tai tiếng reo hò của sóng nước luồng sinh. Trong trận chiến thứ hai phẩm chất nổi bật của chính ông lái đò lại anh hùng, linh hoạt và chủ động đối phó với những thác nước sông Đà.
Nếu trong hai trận chiến trên chúng ta cũng có thể đã đủ để ngưỡng mộ người lái đò, nhưng với Nguyễn, tìm đến con người thì con người ấy là phải được miêu tả đến tài hoa tột bậc, cũng phải trở thành nghệ sĩ. Và Nguyễn đã phải tiếp tục miêu tả người lái đò trong khi cuộc chiến thứ ba với con sông Đà. Và cũng đến vòng vây thứ ba với nghệ thuật miêu tả rất sắc nét vô cùng thì ông lái hiện lên như một tay lái nở hoa, đạt đến mức độ nghệ sĩ trong khi nghề lái đò của mình. Đến vòng thứ bà, ít cửa hơn, với bên phải bên trái đều là luồng chết cả, nhưng người lái đã chủ động “tấn công”: Cứ phóng thẳng thuyền, đã chọc thủng cửa giữa đó. Thuyền vút qua cổng đá cánh mở khép. Vút, vút, qua cửa ngoài, cửa trong, lại cửa trong cùng, thuyền như một mũi tên tre xuyên nhanh qua luôn hơi nước, vừa xuyên vừa tự động lái được lượn được. Khung cảnh giao tranh dù rất quyết liệt, khi một mất một còn nhưng Nguyễn đã miêu tả như chính một cuộc chiến của giới thần tiên. Màn hơi nước mờ trắng hư ảo, con thuyền không bơi trên sóng nước con sông Đà mà nó như đang bay trên dòng sông hư ảo ấy. Con thuyền như những mũi tên tre xuyên nhanh qua hơi nước. Còn người lái đò như một tiên ông với những phép lạ, chỉ vẩy tay chèo mà con thuyền vút vút đã xuyên đi như có một mãnh lực siêu hình. Phải chăng đó cũng chính là tuyệt tài của một tay lái nở hoa và thế là kết thúc.
Nổi bật nhất, độc đáo nhất có lẽ ở người lái đò sông Đà là phong thái của một nghệ sĩ tài hoa. Khái niệm tài hoa, nghệ sĩ trong sáng tác của nhà văn Nguyễn Tuân có nghĩa rộng, không cứ là những người làm thơ, đã viết văn mà cả những người làm nghề chẳng mấy liên quan tới nghệ thuật cũng là khi được coi là nghệ sĩ, nếu việc làm của họ đạt đến trình độ thật tinh vi và siêu phàm. Trong người lái đò sông Đà, Nguyễn Tuân cũng đã xây dựng một hình tượng người lái đò nghệ sĩ mà nhà văn rất trân trọng gọi là tay lái ra hoa. Nghệ thuật ở đây là nắm chắc các quy luật tất yếu của dòng sông Đà và vì làm chủ được nó nên có tự do.
Song, quy luật ở trên con sông Đà chính là thứ quy luật khắc nghiệt. Một chút thiếu bình tĩnh, thiếu chính xác, hay lỡ tay, đã quá đà đều phải trả giá bằng mạng sống. Mà ngay ở những khúc sông không có những thác nó dễ dại tay dại chân mà buồn ngủ như người Mèo đã kêu mỏi chân khi dẫm lên đồng bằng thiếu dốc, thiếu đèo. Chung quy lại, với nơi nào cũng hiểm nguy. Ông lão lái đò vừa thuộc dòng sông, thuộc quy luật của những lũ đá nơi ải nước hiểm trở này, khi vừa nắm chắc binh pháp của thần sông thần đá. Vì thế, khi vào trận mạc, ông thật khôn khéo, bình tĩnh như vị chỉ huy cầm quân thật tài ba. Mọi giác quan của ông lão đều đã hoạt động trong sự phối hợp nhịp nhàng và chính xác. Xong trận, lúc nào cũng ung dung, thanh thản như chưa từng vượt thác đó là: Sóng thác xèo xèo tan ra trong trí nhớ với sông nước lại thanh bình. Đêm ấy nhà đò đốt lửa trong chính hang đá, nướng ống cơm lam và toàn bàn về cá anh vũ, cá dầm xanh, khi về những cái hầm cá hang ca mùa khô nổ những tiếng to như chính mìn bộc phá rồi túa ra đầy tràn ruộng. Cũng chả thấy ai bàn thêm như một lời nào về cuộc chiến thắng vừa qua nơi ải nước đủ tướng dữ quân tợn vừa rồi. Như những người nghệ sĩ chân chính, sau khi vắt kiệt sức mình để thai nghén nên những tác phẩm không mấy ai tự tán dương về công sức của mình. Nhà văn Nguyễn Tuân cũng đã đưa ra một lời nhận xét: Cuộc sống của họ cũng là ngày nào cũng chiến đấu với những sông Đà dữ dội, ngày nào cũng giành lấy sự sống và từ tay những cái thác, nên nó cũng không có gì là hồi hộp, đáng nhớ… Họ nghĩ thế, nhưng lúc ngừng chèo. Phải chăng người lái đò anh hùng có lẽ dễ thấy, khi nhưng nhìn người lái đò tài hoa, người lái đò chỉ có khi Nguyễn Tuân và, lời ghi chú của nhà văn thật đáng để khiến ta suy ngẫm!
Nổi bật trong trang văn của tác giả Nguyễn là nhân vật luôn được nhà văn miêu tả ở phương diện tài hoa với nghệ sĩ. Nếu trước CMT8 -1945, Nguyễn Tuân chỉ tập trung vào nhóm lớp nhà nho quá vãng thì nay sau CM, tác giả cũng đã tìm thấy và khẳng định cái đẹp ở ngay trong cuộc sống hàng ngày của nhiều người dân lao động. Cuộc đời của người lái đò vô danh, vốn không tên tuổi, nơi có những ngọn thác hoang vu, khuất nẻo kia là cả một khu thiên anh hùng ca, một pho nghệ thuật tuyệt vời. Nếu như thiên nhiên sông Đà trong những tác phẩm của Nguyễn Tuân là “kẻ thù số một” của con người, thì cũng chính thiên nhiên, và qua ngòi bút của nhà văn là nơi đã tôn vinh giá trị con chính người vào lao động.
Phân tích hình tượng Người Lái Đò Sông Đà (mẫu 3)
Bài phân tích hình ảnh Người Lái Đò Sông Đà bởi học sinh trường chuyên:
Người lái đò sông Đà đã ra đời trong những năm toàn dân ta bước vào công cuộc xây dựng Xã hội chủ nghĩa đầy sôi động và rất khẩn trương, khi đó cảm hứng ngợi ca, xứng đáng tôn vinh cuộc sống mới, con người mới ngập tràn trong các tác phẩm văn học. Không nằm ngoài xu thế chung đó, nơi Người lái đò sông Đà với hình tượng người lái đò chính là một trong những hình ảnh nổi bật. Nguyễn Tuân đã ca ngợi người lao động bình dị, vô danh nhưng hàng ngày và hàng giờ đang cống hiến, dựng xây đất nước.
Hình tượng người lái đò sông Đà đã được đặt trong quan hệ với sông Đà, để qua đó tô đậm, làm nổi bật hình tượng lên người lái đò. Bởi vậy sông Đà hung dữ, bạo ngược bao nhiêu thì khi vượt qua nó, cả sự chiến thắng sức mạnh của nó người lái đò càng thể hiện rõ nét hơn sức mạnh của mình.
Người lái đò quê ở Lai Châu, đã từng nhiều lần xuôi ngược dòng sông Đà hơn một trăm lần trong đó có tới hơn sáu mươi lần giữ lái chính. Tác giả đã tạo ấn tượng cho người đọc về ông lái đò với những con số đã đầy áp lực và thử thách. Mỗi lần vượt sông Đà chính là một lần đối diện với cái chết, số lần ông vượt sông Đà thành công đã cho thấy sự tài giỏi, điêu luyện trong nhiều nghề nghiệp của ông lái đò.
Để làm nổi bật vẻ đẹp của người lái đò, nhà văn Nguyễn Tuân đã giới thiệu chân dung của nhân vật: “tay ông lêu nghêu như cái sào, chân ông không lúc nào là không khuỳnh khuỳnh gò lại như kẹp lấy một cái cuống lái tưởng tượng, giọng ông ào ào như tiếng nước trước trên mặt ghềnh sông, nhỡn giới ông vòi vọi như lúc nào cũng mong một cái bến xa nào đó có trong sương mù”, “cái đầu bạc quắc thước… đặt lên thân hình gọn quánh chất sừng chất mun”. Ở diện mạo của ông lái đò chỉ có một điểm duy nhất là chứng tỏ tuổi ông đã cao đó là mái tóc bạc, khi dùng tay che mái tóc này đi, người ta lầm tưởng là khi “mình đang đứng trước một chàng trai đang ngồi ngoài bến chính bờ sông”. Diện mạo, ngoại hình của ông lái đò gây ấn tượng manh với người đọc, và bởi nó trái ngược hoàn toàn với cái tuổi bảy mươi của ông, đó là diện mạo, ngoại hình của một chàng thanh niên lực lưỡng, dẻo dai, và cường tráng. Sức khỏe, thể chất của ông lái đò in đậm dấu ấn nghề nghiệp, do suốt đời vật lộn với dòng sông nước nên cần phải có một thể lực phi thường để chiến đấu lại với những con thác dữ dội.
Phẩm chất nổi bật và có ý nghĩa quyết định nhiều đến sự thành công của ông lái trong nghề vượt thác này chính là kinh nghiệm dày dặn. Không cần bất cứ bản hồ nào nhưng lại có thể nhớ một cách thật chính xác luồng lạch trên sông. Để ngợi ca bản lĩnh của ông Nguyễn Tuân đã sử dụng hình được hình ảnh so sánh độc đáo, giàu chất thơ “Sông Đà đối với ông lái đò ấy, cũng như một trường thiên anh hùng ca mà ông đã thuộc đến cả dấu chấm than, và chấm câu và những đoạn xuống dòng”. Không chỉ dày dặn kinh nghiệm, khi ông lái đò còn nâng nghề nghiệp của mình – công cụ mưu sinh thành một niềm đam mê mãnh liệt trong đời. Bởi đối mặt với thác dữ, cũng tức là đối mặt với cái chết song ông không hề sợ hãi mà cảm thấy đó là sự thú vị trong khi nghề nghiệp của mình. Với ông lái đò thì sông Đà chỉ thực sự đậm đà ở đoạn nhiều ghềnh thác, và nếu phải chèo đò ở những đoạn bằng phẳng thì ông thấy chân mình như dại đi và nơi buồn ngủ như người mèo đi bộ ở đồng bằng.
Hình tượng ông lái đò đẹp đẽ nhất chính là trong cuộc thủy chiến với sông Đà. Nguyễn Tuân cũng đã sáng tạo ra một một cuộc thủy chiến có một không hai trong lịch sử văn học, và giữa một bên là thủy quái sông Đà với sức mạnh ghê gớm, tâm địa xảo trá và với một bên là ông lái đò tuy dẻo dai, khi cường tráng nhưng đơn độc trong cuộc chiến gay go, quyết liệt này để có thể giành được chiến thắng, cũng là lúc ông lái đò đã bộc lộ tất cả những phẩm chất tốt đẹp của mình.
Ở trùng vi thạch trận thứ nhất, với sông Đà đã phô ra sức mạnh thể chất của nó với sự phối hợp giữa đá, sóng, nước. Chúng vừa đánh trực diện vừa tung đòn đánh tỉa, để dồn chính ông lái đò vào thế yếu. Dù cảm hứng lãng mạn là cảm hứng chủ đạo trong tác phẩm sông cái nhìn và cách miêu tả của nhà văn Nguyễn Tuân về cuộc thủy chiến không hề hời hợt dễ dàng, khi ông ghi lại thời điểm mà tưởng như ông lái đò ngã gục trước những đòn đánh của sự chí mạng của sông Đà. Nhưng bằng sức chịu đựng phi thường, thể chất dẻo dai và cường tráng vẫn cố gắng kẹp chặt cuống lái, trên thuyền vẫn vang lên sự chỉ đạo ngắn gọn, rất dứt khoát. Và bằng lòng dũng cảm, sức khỏe phi thường, bình tĩnh ông lái đò cũng đã vượt qua những trùng vi thạch trận thứ nhất. Ở trùng vi thạch trận thứ hai với sự thay đổi bất ngờ, khi biến hóa khôn lường trong việc bố trí các cửa sinh, nơi cửa tử. Nhưng bằng kinh nghiệm dày dạn, bằng sự linh hoạt ông lái đò đã rất nhanh chóng đưa thuyền đi vào đúng cửa sinh. Với đoạn quân sóng nước, cách đánh của chính ông cũng biến hóa linh hoạt, để phù hợp với những trùng vi thạch trận khi khác nhau. Ở trùng vi thạch trận cuối cùng tác giả miêu tả không nhiều song vẫn có làm bật lên được tài nghệ trong việc lái đò của ông lão. Bằng sức khỏe và sự dẻo dai, với sức chịu đựng, đặc biệt là lòng dũng cảm, chủ động, quyết đoán, với ông đã vượt qua tất cả nhưng cái bẫy mà sông Đà đã tung ra. Cuộc chiến không cân sức giữa một bên là thiên nhiên dữ dội với thế khó một bên là ông lão đơn độc chỉ có mái chèo là vũ khí duy nhất, song chiến thắng đã thuộc về chính con người.
Nếu như trong cuộc chiến với sông Đà đã thể hiện vẻ đẹp và sức mạnh ở bề nổi của sông Đà thì sau những cuộc chiến cách ứng xử với chiến công, khi chiến thắng của ông lão lại cho thấy những vẻ đẹp ở bề sâu tâm hồn,với nhân cách. Chiến thắng được sông Đà với bảy mươi ba ghềnh thác là một điều mà không phải ai cũng có thể làm dược, thậm chí đây là một chiến công thật phi thường. Song với ông lão và tất cả những người lao động ở nơi đây là một điều hết sức bình thường. Nhưng chính bởi biết giản dị hóa bình thường hóa những khiến điều phi thường mà tâm hồn, nhân cách của những người lao động nơi đây càng trở nên trân trọng, thật đáng quý.
Hình tượng ông lái đò in đậm dấu ấn với phong cách Nguyễn Tuân. Bởi ông chính là kiểu người tài hoa, nghệ sĩ, sự biết nâng nghề nghiệp của mình lên mức nghệ thuật. Song ở hình tượng ông lão thể hiện rất rõ sự chuyển biến trong khi tư tưởng Nguyễn Tuân khi những con người tài hoa, người nghệ sĩ được miêu tả không phải là những con người phi thường mà chính là những con người bình dị, thậm chí vô danh. Đây chính là cách Nguyễn Tuân ngợi ca, tôn vinh những người lao động thầm lặng trong công cuộc xây dựng cho xã hội chủ nghĩa.
Tham khảo thêm: