Dàn ý và bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

0

Phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A phủ – Nhân vật Mị được nhà văn miêu tả là một cô gái xinh đẹp, và  có đời sống tinh thần phong phú nhưng cuộc đời rất bi thảm từ khi về làm dâu đến nhà thống lý Pá Tra. Tuy nhiên với sức sống tiềm tàng mãnh liệt của chính mình, Mị đã không đầu hàng số phận để thoát khỏi sự áp và bức tàn bạo và vùng lên giải phóng cho chính bản thân mình cũng như những số phận đã bị áp bức khác. Sau đây là dàn ý phân tích nhân vật Mị ở trong tác phẩm Vợ chồng A Phủ cùng với các bài văn mẫu phân tích hình tượng nhân vật Mị siêu hay và xin chia sẻ đến bạn đọc.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Nhân vật Mị trong tác phẩm “Vợ chồng A Phủ” của nhà văn Tô Hoài là một hình ảnh tượng trưng cho vẻ đẹp và sức sống tiềm tàng của một người phụ nữ bị áp bức. Thông qua hình tượng nhân vật Mị và tác giả đã tố cáo tội ác của thế lực phong kiến, thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, là đọa đày người dân nghèo miền núi. Trong bài viết này mình xin chia sẻ các bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị, phân tích nhân vật Mị trong đêm tình của mùa xuân, sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân để các bạn hiểu rõ hơn chi tiết hơn về nhân vật Mị trong tác phẩm.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

a) Mở bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

Tô Hoài là một nhà văn nhạy cảm với cảnh sinh hoạt, phong tục tập quán của những vùng miền, và ông có vốn ngôn ngữ phong phú, lối trần thuật tự nhiên.

Vợ chồng A Phủ là một truyện ngắn tiêu biểu cho phong cách riêng của Tô Hoài, với truyện viết về những con người Tây Bắc tiềm tàng sức sống đã vùng lên đấu tranh chống lại những bọn thống trị.

Nhân vật Mị là biểu tượng đẹp cho những sức sống tiềm tàng của người phụ nữ bị áp bức.

b) Thân bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

*Mị vốn chính là cô gái có những phẩm chất tốt đẹp

– Trước khi làm dâu nhà thống lí Pá Tra:

Mị là cô gái người Mông trẻ trung, hồn nhiên, và có tài thổi sáo “thổi lá cũng hay như thổi sáo có biết bao nhiêu người mê”

Mị đã từng yêu, từng được yêu, luôn luôn khao khát và đi theo tiếng gọi của tình yêu.

Hiếu thảo, chăm chỉ, ý thức được giá trị của một cuộc sống tự do nên sẵn sàng làm nương ngô trả nợ thay cho bố.

*Nạn nhân của những áp bức bởi sự bất công

Khi về làm dâu nhà thống lí Pá Tra: đã bị “cúng trình ma” nhà thống lí, làm con dâu gạt nợ, bị bóc lột sức lao động, và “không bằng con trâu con ngựa”, “đàn bà trong cái nhà này chỉ biết vùi đầu vào công việc” , đã bị đày đọa nơi địa ngục trần gian, bị đánh, bị phạt, bị trói, …

Mị dần trở nên chai sạn với nỗi đau là: một cô gái lúc nào cũng vậy dù quay sợi, thái cỏ ngựa, … và đều cúi mặt “mặt buồn rười rượi”, không quan tâm đến thời gian “lỗ vuông bằng bàn tay đó…không biết là sương hay nắng”.

Mị sống lầm lì “như con rùa nuôi trong xó cửa”, “ở lâu trong cái khổ Mị quen rồi”.

*Sức sống tiềm tàng trong khi nhân vật Mị

– Khi bị rơi vào cảnh làm con dâu gạt nợ vào Mị có ý định tự tử bằng lá ngón, không chấp nhận cuộc sống mất tự do.

– Trong đêm hội mùa xuân ở Hồng Ngài, với sức sống của Mị đã trỗi dậy:

  • Âm thanh cuộc sống bên ngoài còn là (tiếng trẻ con chơi quay, tiếng sáo gọi bạn tình, ..) ùa vào tâm trí, đã đánh thức những kỉ niệm trong quá khứ của Mị.
  • Mị lẩm nhẩm lời bài hát, trong những khoảnh khắc tâm hồn trở về với thanh xuân tươi đẹp, và khao khát tình yêu hạnh phúc.
  • Mị ý thức được sự tồn tại của bản thân đã “thấy phơi phới trở lại”, “Mị còn trẻ lắm và Mị vẫn còn trẻ.
  • Mị muốn đi chơi”, và với khát khao tự do
  • Tinh thần phản kháng mạnh mẽ đã: lấy miếng mỡ để thắp sáng lên căn phòng tối, nổi loạn muốn “đi chơi tết” nơi chấm dứt sự tù đày.
  • Khi A Sử trói, trong lòng Mị vẫn lửng lơ theo tiếng sáo, tiếng hát của tình yêu đến những đám chơi.
  • Lúc đã vùng dậy cô chợt tỉnh trở về với hiện thực.

– Nhận xét: Mị luôn tiềm tàng sức sống mãnh liệt, và sức sống ấy luôn âm ỉ trong lòng của mỗi người con gái Tây Bắc chỉ chờ có cơ hội để bùng lên mạnh mẽ.

– Khi A Phủ làm mất bò, đã bị phạt trói đứng:

Ban đầu Mị dửng dưng bởi sau đêm tình mùa xuân, nơi cô trở lại là cái xác không hồn.

Khi thấy giọt nước mắt của A Phủ khiến Mị đồng cảm, dã chợt nhớ đến hoàn cảnh của mình trong quá khứ, Mị lại biết thương mình và cũng bởi thương cho kiếp người bị đày đọa và “có lẽ ngày mai người kia sẽ chết, chết đau, … phải chết”.

Bất bình trước tội ác của bọn thống lí, khi Mị cắt dây đay cởi trói cho A Phủ

Mị sợ cái chết, sợ nỗi khổ sẽ phải chịu trong nhà thống lí, cô chạy theo A Phủ tìm lối thoát vượt ra khỏi những địa ngục trần gian.

– Nhận xét: Mị là người con gái lặng lẽ mà mạnh mẽ, có tiềm tàng sức sống, hành động của Mị đã đạp đổ cường quyền, với thần quyền của bè lũ thống trị miền núi.

c) Kết bài phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

Nêu suy nghĩ về hình tượng nhân vật Mị trong bài văn.

Nghệ thuật: ngôn ngữ, và cách nói đậm chất miền núi, lối trần thuật linh hoạt với sự dịch chuyển điểm nhìn trần thuật, bằng miêu tả thành công tâm lí nhân vật và hình ảnh thiên nhiên.

Tác phẩm cũng đã chứa đựng giá trị nhân đạo sâu sắc: sự cảm thông với số phận đau khổ của những con người chịu áp bức, và tố cáo lên án bọn thống trị miền núi, bọn thực dân, ngợi ca vẻ đẹp, với sức sống tiềm tàng trong mỗi con người Tây Bắc.

2. Bài văn mẫu phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ

Phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ (mẫu 1)

Bài phân tích Vợ Chồng A phủ nhân vật Mị đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Tô Hoài là một nhà văn lớn của nền văn xuôi hiện đại Việt Nam với số lượng tác phẩm đạt kỷ lục. Vợ chồng A Phủ là truyện ngắn thành công nhất là trong ba truyện ngắn viết về đề tài Tây Bắc của ông. Tác phẩm có một giá trị hiện thực và cùng nhân đạo đáng kể. Truyện viết về cuộc sống của người dân lao động vùng núi cao, dưới sự ách thống trị tàn bạo của bọn thực dân phong kiến miền núi. Đặc biệt truyện đã xây dựng thành công nhân vật Mị, và qua đó ca ngợi vẻ đẹp tâm hồn, sức sống tiềm tàng và khả năng đến với những cách mạng của nhân dân Tây Bắc .

Vợ chồng A Phủ in trong tập truyện Tây Bắc  và năm 1954. Tập truyện được tặng giải nhất – giải thưởng về Hội văn nghệ Việt Nam 1954- 1955.Tác phẩm đã ra đời là kết quả của chuyến đi thực tế của nhà văn cùng với bộ đội ngày giải phóng Tây Bắc năm 1952. Vợ chồng A Phủ mở đầu bằng những cách giới thiệu nhân vật Mị ở trong cảnh tình đầy nghịch lý và cuốn hút độc giả là: “Ai ở xa về, có dịp vào nhà thống lí Pá Tra thường trông thấy có sự một cô gái ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, cạnh tàu ngựa. Lúc nào cũng vậy, cho dù quay sợi, thái cỏ ngựa, dệt vải, chẻ củi hay đi cõng nước dưới khe suối lên, và cô ấy cũng cúi mặt, mặt buồn rười rượi”.

Cách giới thiệu tạo ra những đối nghịch về cô gái âm thầm lẻ loi, âm thầm như lẫn vào các vật vô tri: cái quay sợi, tàu ngựa; cô gái là con dâu nhà thống lí quyền thế, giàu có nhưng sao mặt lúc nào cũng “buồn rười rượi”. Khuôn mặt đó gợi ra một số phận đau khổ , sự bất hạnh nhưng cũng ngầm ẩn một sức mạnh tiềm tàng.

Mị trước đó vốn là một người con gái đẹp nơi Mị có nhan sắc, và có khả năng âm nhạc, cô giỏi sáo và giỏi, uốn chiếc lá trên môi, đã thổi lá cũng hay như thổi sáo”. Cô còn một tâm hồn tràn đầy khát khao cuộc sống, luôn khát khao yêu đương. Quả thế, Mị đã được yêu, và đã khát khao yêu, nơi trái tim từng đã bao nhiêu lần hồi hộp trước trước âm thanh của  hò hẹn của người yêu. Những người con gái tài hoa miền sơn cước đó phải chịu một cuộc đời bạc mệnh. Để rồi cứu nạn cho cha, cuối cùng cô đã chịu bán mình, chịu sống cảnh làm người con dâu gạt nợ trong khi nhà thống lí.

Tô Hoài đã diễn tả nỗi cực nhọc về cả thể xác của người con gái ấy, con người với danh nghĩa là con dâu, và nhưng thực chất chính là tôi tớ. Thân phận Mị không chỉ là thân trâu ngựa, của “Con trâu con ngựa làm còn có lúc, đêm nó còn được đứng gãi chân, đứng nhai cỏ, và đàn bà con gái ở cái nhà ngày thì vùi vào việc làm cả ngày lẫn đêm”.

Song nhà văn còn khắc họa đậm nét nỗi đau khổ về cả tinh thần của Mị. Một cô Mị mới hồi nào còn rạo rực yêu đương, lâu bây giờ lặng câm, “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”. Và nhất là hình ảnh căn buồng Mị, nơi kín mít với cái cửa sổ lỗ vuông bằng bàn tay, Mị ngồi trong đó trông ra lúc nào cũng thấy mờ mờ trăng trắng không thể  biết là sương hay là nắng. Đó quả thực là một thứ địa ngục trần gian giam hãm thể xác Mị, nơi cách li tâm hồn Mị với cuộc đời, cầm cố tuổi xuân và sức sống của cô gái. Tiếng nói tố cáo chế độ phong kiến nhiều miền núi ở đây đã được cất lên nhân danh quyền sống và với cái chế độ ấy đáng lên án, bởi vì nó làm cạn khô nhựa sống, làm tàn lụi đi ngọn lửa của niềm vui sống trong con người vô cùng đáng sống.

Mị đã từng muốn chết mà không được chết, và vì cô vẫn còn đó món nợ của người cha. Nhưng đến lúc có thể chết đi, đã vì cha Mị không còn nữa thì Mị lại buông trôi, kéo dài mãi sự tồn tại vật vờ. Chính lúc này cô gái còn đáng thương hơn bao giờ hết. Bởi muốn chết nghĩa là vẫn còn muốn chống lại được một cuộc sống không ra sống, nghĩa là xét cho cùng, còn thiết sống. Còn khi đã không còn thiết chết, nghĩa là sự tha thiết với cuộc sống cũng không còn, và lúc đó thì lên núi hay đi nương, thái cỏ ngựa hay cõng nước cũng chỉ là cái xác không của hồn của Mị mà thôi.

Sức sống của Mị dường như mất đi còn nhưng bên trong cái hình ảnh con rùa lầm lũi kia đang còn một con người. Khát vọng hạnh phúc có thể bị vùi lấp, nơi bị lãng quên trong đáy sâu của một tâm hồn đã chai cứng vì đau khổ, và rồi nhưng không thể bị tiêu tan. Gặp thời cơ thuận lợi thì nó lại cháy lên những khát vọng hạnh phúc đó đã bất chợt cháy lên, thật nồng nàn và xót xa trong khi một đêm xuân đầy ắp tiếng gọi của tình yêu .

Bức tranh Hồng Ngài mùa xuân năm ấy cũng còn có sức làm say đắm lòng người tuổi trẻ. Gió rét, sắc vàng ửng của cỏ tranh, sự biến đổi màu sắc cực kì ảo của các loài hoa đẹp đã góp phần làm nên cuộc nổi loạn sâu trong một tâm hồn đã bấy nhiêu năm tê dại vì đau khổ. Tác nhân quan trọng là hơi rượu đến ngày tết năm đó Mị cũng uống rượu, Mị lén uống từng bát,vì  “uống ừng ực” rồi say đến lịm người đi. Cái say cùng lúc vừa gây sự lãng quên vừa đêm về nỗi nhớ. Mị lãng quên thực tại (nhìn mọi người nhảy đồng, người hát mà không nghe, và không thấy và cuộc rượu lúc nào cũng không hay) nhưng lại nhớ về những ngày trước (ngày trước, Mị thổi sáo cũng giỏi …), và quan trọng hơn chính là Mị vẫn nhớ mình là một con người, vẫn có cái quyền sống là của một con người: “Mị vẫn còn trẻ. Mị muốn đi chơi. Bao nhiêu người có chồng cũng với đi chơi ngày Tết. Huống chi Mị và A Sử, không có lòng với nhau mà vẫn phải ở cùng với nhau”.

Những tác nhân có tác dụng nhiều nhất trong việc dìu hồn Mị bềnh bồng về với những khát khao của hạnh phúc yêu đương có lẽ vẫn là tiếng sáo bởi tiếng sáo là tiếng gọi của mùa xuân, và của tình yêu và tuổi trẻ. Tiếng sáo rập rờn trong đầu Mị, nó đã trở nên tiếng lòng của những người thiếu phụ. Mị đã thức dậy với sức sống tiềm tàng và cảm thức về thân phận đến cho nên trong thời khắc ấy, ta mới thấy Mị đầy rẫy những sự mâu thuẫn. Lòng phơi phới nhưng Mị vẫn theo quán tính bước vào buồng, rồi ngồi xuống giường, trông ra cái lỗ vuông mờ mờ và trăng trắng. Và khi lòng ham sống trỗi dậy thì ý nghĩ đầu tiên là được ngay chết ngay đi.

 

Nhưng rồi nỗi ám ảnh và sức sống mãnh liệt của một tuổi xuân cứ lớn dần, cho tới khi nó lấn chiếm hẳn trọn bộ tâm hồn và suy nghĩ của Mị, và cho tới khi Mị hoàn toàn chìm hẳn vào trong ảo giác: “Mị muốn đi chơi. Mị cũng sắp đi chơi”. Phải tới thời điểm đó Mị cũng mới có hành động như một kẻ mộng du: quấn lại tóc, với thêm cái váy hoa, và rồi rút thêm cái áo. Tất cả những việc đó, Mị đã làm như là  trong một giấc mơ, tuyệt nhiên không nhìn thấy A Sử bước vào, sẽ không nghe thấy A Sử hỏi“.

Rồi cái gì đến đã đến khi A Sử trói Mị vào cột, rồi lẳng lặng khoác thêm vòng bạc đi chơi, bỏ mặc Mị trong trạng thái mộng du đang chìm đắm với những câu chuyện về giấc mơ về một thời xuân trẻ, đang bồng bềnh trong cảm giác du xuân. Tâm hồn Mị đã đang còn sống trong thực tại ảo, sợi dây trói của đời thực chưa thể làm kinh động ngay lập tức giấc mơ của những kẻ mộng du. Cái cảm giác về hiện tại tàn khốc, Mị chỉ cảm thấy khi vùng chân bước chân theo tiếng sáo mà tay chân đau không cựa được. Nhưng nếu cái mơ không đến một lần nữa thì sự tỉnh ra cũng thành như vậy. Lại một giai đoạn chập chờn nữa giữa cái mơ và cái tỉnh, và giữa tiếng sáo và nỗi đau nhức của dây trói và tiếng con ngựa đạp vách, nhai cỏ và gãi chân. Nhưng bây giờ thì theo chiều ngược lại, tỉnh dần ra, nỗi đau đớn và tê dại dần đi, để sáng hôm sau lại trở về với vị trí của con rùa nuôi trong câm lặng, mà còn câm rất lặng hơn trước.

Nhưng có lẽ sức sống của Mị cũng bùng lên mạnh mẽ nhất là lúc Mị cởi trói cho A Phủ và cũng như Mị, A Phủ là nạn nhân của chế độ độc tài phong kiến cho miền núi. Những va chạm mang đầy tính tự nhiên của lứa tuổi thanh niên trong những đêm tình mùa xuân cũng đã đưa A Phủ trở thành con ở gạt nợ trong nhà thống lí. Và bản năng của một người con đã vốn sống gắn bó với núi rừng, ham thích săn bắn đã đẩy A Phủ tới hiện bởi thực phũ phàng: bị trói đứng. Và chính hoàn cảnh bi thương đó đã đánh thức lòng thương cảm khi  trong con người Mị. Nhưng tình thương đó không phải tự nhiên bùng phát trong khi Mị mà là kết quả của một quá trình đấu tranh giằng xé trong một thế giới nội tâm của cô. Mấy hôm đầu Mị vô cảm, thờ ơ với hiện thực trước mắt đó là: “A Phủ là cái xác chết đứng đó cũng thế thôi”. Câu văn như một minh chứng sự tê dại trong khi tâm hồn Mị. Bước ngoặt bắt đầu từ những dòng nước mắt:“Đêm ấy A Phủ khóc có một dòng nước mắt lấp lánh bò xuống hai má đã sạm đen. Và giọt nước mắt kia chính là giọt nước cuối cùng làm tràn đầy cốc nước. Nó đưa Mị từ cõi quên trở về với nơi cõi nhớ. Mị nhớ mình đã từng bị trói, đã từng đau đớn và bất lực. Mị cũng đã khóc rất nhiều nước mắt chảy xuống cổ, xuống cằm không biết lau đi được  có khi  A Phủ, nói đúng hơn là dòng nước mắt của A Phủ, đã giúp Mị nhớ ra mình, và làm xót thương cho mình.

Và Mị đã nhớ lại mình, biết nhận ra mình cũng từng có những đau khổ, và mới có thể thấy có người nào đó cũng thật đau khổ giống mình. Từ sự thương mình, Mị dần dần có tình thương với A Phủ, với tình thương với một con người cùng cảnh ngộ. Nhưng nó còn vượt lên giới hạn thương mình là: “Mình là đàn bà … chỉ còn biết đợi ngày rũ xương ở đây thôi còn người kia việc gì mà phải chết ”. Mị đã cởi trói cho A Phủ để rồi bất ngờ chạy theo A Phủ với lòng ham sống của một con người như được thổi bùng lên trong Mị, kết hợp với nỗi sợ hãi, và lo lắng cho mình. Mị như tìm lại được con người thật, có một con người còn đầy sức sống và khát vọng thay đổi số phận.

Nhà văn Tô Hoài cũng đã viết về Mị với tất cả lòng yêu thương, thông cảm chỉ có lòng yêu thương thông cảm, tác giả Tô Hoài mới phát hiện ra vẻ đẹp tiềm tàng trong tâm hồn những con người ham sống như Mị.

Vợ chồng A Phủ qua những việc khắc họa sâu sắc cuộc đời, số phận, tính cách Mị đã tố cáo hùng hồn, và đanh thép những thế lực phong kiến, nhưng thực dân tàn bạo áp bức bóc lột, đã đọa đày người dân nghèo miền núi. Đồng thời nó cũng khẳng định khát vọng tự do hạnh phúc, với sức sống mạnh mẽ và bền bỉ của những người lao động. Đặc biệt đề cao những sự đồng cảm giai cấp, tình hữu ái của những người lao động nghèo khổ. Chính điều này đã đem lại sức sống và sự vững vàng trước thời gian của Vợ chồng A Phủ sống trong những ngày tháng sưu cao thuế nặng. Để có tiền nộp sưu cho chồng (thuế thân) và những người em chồng đã mất. Chị Dậu đã phải bán con khi  chị Dậu tưởng khổ đến thế là cùng, những người phụ nữ bất hạnh ấy còn có cả một gia đình.

Phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ (mẫu 2)

Bài phân tích Vợ Chồng A phủ nhân vật Mị đạt điểm cao để các bạn tham khảo:

Tô Hoài là một nhà văn thật lớn, đóng góp nhiều thành tự cho văn học Việt Nam. Nếu như trước những năm 1945, ông đánh dấu sự thành công với tập truyện “Dế Mèn phiêu lưu ký” thì đến sau năm 1945, tập “Truyện Tây Bắc” đã đưa tên tuổi của ông lên một tầm cao rất mới.

Tình cảm thiết tha, gắn bó, và cực kì sâu sắc của Tô Hoài dành cho đất và con người Tây Bắc đã giúp ông viết nên những trang văn thấm đẫm những tình yêu thương như thế. Truyện “Vợ chồng A Phủ” được trích trong tập Tây Bắc là câu chuyện tiêu biểu và đã mang nhiều giá trị tư tưởng lớn. Trong truyện, tác giả gửi gắm trọn vẹn nhất nhiều những tình cảm của mình vào nhân vật Mị, một cô gái đại diện cho vẻ đẹp và với phẩm chất con người Tây Bắc.

Mị vốn là một người con gái tuổi đôi mươi của nơi núi rừng Tây Bắc xinh đẹp và có tài thổi lá kèn hay như thổi sáo, và được nhiều thanh niên trong làng mến mộ. Sức hấp dẫn của Mị tựa như bông hoa rừng Tây Bắc đầy mê hoặc. Vào những đêm tình mùa xuân, trai bản đến đứng khi nhẵn cả vách đầu buồng Mị. Không chỉ xinh đẹp, ở nàng còn hội tụ tất cả những phẩm chất đẹp đẽ, đó là người con gái hiếu thảo với cha mẹ lại chăm chỉ với công việc. Cuốc nương, làm rẫy Mị tất cả đều thuần thục.

Một cô gái tài sắc vẹn toàn như Mị rất xứng đáng được yêu thương, được hạnh phúc, nhưng Mị lại gặp phải hoàn cảnh lại  trớ trêu. Bọn phong kiến tàn bạo đã khiến gia đình Mị lâm vào cái cảnh nợ nần chồng chất, gánh nặng phải trả nợ đè nặng lên đôi vai cô gái bé của sự nhỏ. Song, chưa bao giờ Mị muốn phải bán mình để trả nợ, và nàng cầu xin bố đừng bán cho nhà giàu, cô sẽ chăm chỉ làm nương, đã cuốc rẫy giúp bố trả nợ.

Nhưng xã hội cường quyền không cho phép Mị sống cuộc đời tự do ấy. Cuộc đời Mị phải chịu sự quyết định của những kẻ khác, cuối cùng cô phải bán mình, bước chân vào nhà tên nhà thống lí Pá Tra tàn ác chịu phận nô lệ trên danh nghĩa làm dâu xoá nợ. Một cô gái sẵn sàng hi sinh bản thân để cứu lấy cha mẹ, và sự cứu lấy gia đình chứng tỏ Mị là cô gái hết mực hiếu thảo, với yêu thương cha mẹ mình. Mị khát khao tự do, rồi ý thức được nhân phẩm và giá trị bản thân nhưng cường quyền của chế độ phong kiến thối nát và trói buộc cuộc đời cô.

Về làm dâu nhà Pá Tra, cô gái tên Mị phải âm thầm chịu đựng bao nỗi bất công, thời gian đầu, đêm nào Mị cũng khóc thương cho số phận, cho cảnh sự hẩm hiu của đời mình, nàng đã bỏ hết tất thảy để tìm đến cái chết bằng cách nắm lá ngón để giải thoát những uất ức, cực khổ đau kìm nén bấy lâu. Nhưng khi nghĩ về cha, thương cha nàng lại không đành lòng, cho đành phó mặc cuộc sống, chấp nhận cuộc đời cơ cực với kiếp nô lệ đau thương của chính mình.

Trong nhà tên A Sử, Mị chịu bao nỗi đau thể xác và tinh thần của mình, Mị khổ cực hơn cả trâu cả ngựa, công việc làm triền miên ngày này qua ngày khác, sang năm này qua năm khác chẳng nghỉ ngơi. Mị như một cái máy gắn bó với công việc từ hái thuốc phiện, và giặt đay, xe đay đến đi bẻ ngô, gánh nước, kiếm củi,…, không việc nào là không tới bàn tay Mị.

Thể xác bị bóc lột, tinh thần Mị cũng không sướng là bao, cô nàng suốt ngày “lùi lũi như con rùa nuôi trong xó cửa”, tinh thần bị tê liệt đến đã đau khổ, Mị ngày càng ít nói, câm lặng hơn, chẳng còn nhận thức về thời gian và khiến cuộc sống ngoài kia. “Ở cái buồng Mị nằm, kín mít, đã có một chiếc cửa sổ bằng một lỗ vuông bằng bàn tay. Lúc nào trông ra cũng chỉ thấy trăng trắng, và không biết là sương hay là nắng”. Dường như tuổi xuân nàng bị khóa chặt trong ngôi nhà đó. Nàng ngày càng trở nên vô cảm với bản thân.

Song, ẩn sâu trong con người Mị là một sức sống tiềm tàng và  không gì có thể ngăn nổi. Khi mùa xuân đến, không khí vui xuân ngày hội nơi những bản làng Tây Bắc thật đẹp, thật tươi, đã  khiến Mị bồi hồi nhớ lại những quá khứ tươi đẹp ngày xưa và rồi rượu và tiếng sáo rủ bạn tình khiến tâm hồn tươi trẻ của Mị như có dịp trỗi dậy, trong lòng Mị rạo rực sức sống mùa xuân là “lòng Mị đột nhiên vui sướng như những đêm tết ngày trước”.

Từ niềm rạo rực, phấn chấn ấy đã thôi thúc Mị hành động rất  dứt khoát và quyết liệt vô cùng. Cô lấy ống mỡ bỏ thêm vào đĩa dầu để thắp đèn, đã thắp lên thứ ánh sáng xua tan đi bóng tối rợn ngợp bao trùm, và xua tan màn đêm bấy lâu vây quanh cuộc đời Mị, nhen nhóm ngọn lửa hy vọng cho cuộc đời của chính mình. Rồi Mị “quấn tóc lại với tay lấy cái váy hoa vắt ở phía trong vách cũng là “, Mị muốn được là mình, được là một cô gái đẹp đẽ như bao người con gái khác trong những đêm mùa xuân ấy.

Trong lúc sức trẻ đang trỗi dậy, và lòng yêu đời đang sung sức với Mị thì thực tại phũ phàng đã nhẫn tâm vùi dập niềm yêu ấy. Với A Sử khi biết lòng Mị muốn đi chơi, hắn đã chặn đứng bỏ ngay ý định đó. Hắn trói vợ vào cột nhà bằng một thúng sợi dây, đã quấn lấy mái tóc dài của Mị lên cột khiến cô đau đớn không thể cử động được. Nhưng thể xác dù bị trói buộc, đã bị hành hạ vẫn không thể trói lấy tâm hồn đang thiết tha cuộc sống của nàng, với khát vọng sống vẫn âm ỉ cháy trong con người Mị.

Hành động mãnh liệt nhất của cô là cắt dây trói cho chính A Phủ. Trong cơn đau đớn, Mị xót xa cho phận mình, và thương cảm cho phận người, đó là sự đồng cảm với những kiếp người cùng chung một số phận. Chính giọt nước mắt của A Phủ đã thức tỉnh Mị, rồi hồi sinh trái tim đầy những vết sẹo đau thương. Mị quyết định cùng A Phủ chạy trốn. Đã Giải thoát cuộc đời mình khỏi những sức mạnh tàn bạo của cường quyền, của bọn thống lý thiếu tình người, đồng thời chấm dứt cuộc đời nô lệ tăm tối, đầy thương đau của chính mình.

Bằng nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật và khắc họa tính cách nhân vật qua suy nghĩ và hành động cùng lời văn nhẹ nhàng tinh tế, Tô Hoài đã xây dựng nên một hình tượng nhân vật Mị thật tiêu biểu và rất đặc sắc. Qua nhân vật, tác giả cũng lên tiếng tố cáo chế độ áp bức tàn bạo, và hà khắc của tầng lớp thống trị trong xã hội xưa và nói lên tiếng nói thương cảm trước những kiếp người chịu rất nhiều áp bức, bất công.

Phân tích nhân vật Mị trong Vợ Chồng A Phủ (mẫu 3)

Bài phân tích Vợ Chồng A phủ nhân vật Mị do học sinh chuyên văn viết để các bạn tham khảo:

Vợ chồng A Phủ được in trong tập Truyện Tây Bắc của nhà văn Tô Hoài đã xuất bản năm 1953. Đây là tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc với thông qua số phận của Mị và A Phủ, nhà văn đã dựng lại quãng đời đau khổ và tối tăm của người dân miền núi trước Cách mạng, đã phản ánh quá trình đến với cách mạng của họ. Tô Hoài đã thành công với trong việc xây dựng nhân vật Mị với diễn biến tâm lí vô cùng là  phức tạp.

Nhân vật Mị mang đầy đủ những phẩm chất tốt đẹp của phụ nữ vùng cao. Đẹp người, đẹp nết, Mị được nhiều trai bản rất yêu mến, ước ao. Tuổi thanh xuân hứa hẹn với cô bao điều tốt lành, với nhưng chỉ vì món nợ cha mẹ cô vay của tên thống lí Pá Tra từ ngày cưới, khi cho đến khi mẹ cô đã chết mà vẫn chưa trả được nên Mị bị bắt về làm con dâu trừ nợ cho chính nhà hắn. Mị bị coi như một thứ đồ vật vô tri vô giác để tính ra tiền trừ khi vào số nợ. Những năm tháng Mị sống với cha còn tên thống lý gian ác là chuỗi dài đau thương, khổ ải. Cô bị coi rẻ hơn cả con trâu và con ngựa.

Đau khổ, cực nhục đã cướp mất tuổi xuân của Mị, cũng biến cô thành kẻ nhẫn nhục, cam chịu. Cô gái xinh đẹp, hồn nhiên, với đa cảm thủa nào đường như đã chết, chỉ còn lại người đàn bà lúc nào cũng vậy cũng cúi mặt với khuôn mặt buồn rười rượi ngồi quay sợi gai bên tảng đá trước cửa, và cạnh tàu ngựa của nhà thống tí. Mị sống âm thầm, lùi lũi như con rùa và nuôi trong xó cửa.

Không những bị đọa đày về thể xác, Mị vẫn còn bị đè nén, áp bức về tinh thần. Cô chán sống nhưng không được chết, và vì Mị chết thì món nợ truyền kiếp kia vẫn còn và người bố già càng thêm khổ sở. Cuộc đời Mị bị trói buộc bằng quyền lực, khi bằng tập tục mê tín dị đoan lâu đời của người dân vùng miền núi. Mị cho rằng mình đã bị Con ma nhà thống lí đã nhận mặt: nó đã bắt ta về trình ma nhà nó rồi thì chỉ còn biết đợi ngày đẫ rũ xương ở đây thôi. Cách đối xử bất công, và tàn bạo của cha con thống lí làm cho Mị sống triền miên trong cả đau khổ. Cô lặng lẽ ra vào như cái bóng, không còn một người bạn chia sẻ tâm tình. Cô chỉ biết làm bạn với ngọn lửa trong những đêm đông dài và buồn hiu. Thân xác Mị héo úa, nơi tâm hồn Mị lạnh lẽo, trống vắng, và nếu không có bếp lửa sưởi kia thì Mị cũng đến chết héo. Ngọn lửa là người bạn duy nhất đã giúp cô xua bớt phần nào bóng tối u ám đang vây phủ cuộc đời. Không có còn người thông cảm với nỗi khổ của mình, Mị phải tìm đến ngọn lửa coi nó là bạn. 

Tác giả giúp người đọc hình dung rõ hơn về những cuộc đời bế tắc của Mị qua hình ảnh căn buồng cô ở kín bưng, tối mò, và chỉ thông với bên ngoài bằng lỗ cửa sổ bé như bàn tay. Ở trong nhìn ra không biết là đêm hay ngày và sương hay nắng.

Bao năm qua, bị đày đọa trong nhà thống lí, với mọi cảm xúc của Mị hầu như tê liệt. Tinh thần phản kháng cũng vậy. Mị nghĩ rằng mình là con trâu con ngựa của nhà giàu, chỉ biết việc ăn cỏ, đã biết đi làm mà thôi. Con trâu, con ngựa đêm còn được nghỉ, còn cô không lúc khi nào ngớt việc. Trước kia, có lần cô phản kháng dữ dội bằng cách định ăn lá ngón tự tử, và giờ đây cô không nghĩ đến cái chết nữa vì đã quá quen với những cái khổ rồi. Đời Mị cứ thế lặng lẽ trôi đi trong vô vọng rồi với Mị, cuộc sống không còn ý nghĩa.

Đau khổ kéo dài khiến cho cơn nhói lòng Mị tưởng chừng nguội lạnh. Dường như mọi cảm xúc, khát khao đã bị dập tắt từ lâu và điều kì diệu là dẫu trong tột cùng đau thương thì mọi thế lực tội ác cũng không hủy diệt được vất kì con người. Lay lắt, đói khổ, nhục nhã nhưng Mị vẫn sống với sự âm thầm, mãnh liệt. Từ trong sâu thẳm tâm hồn người con gái bị đày đọa kia vẫn bị âm ỉ, le lói một ngọn lửa yêu đời, ham sống. Mùa xuân về, với Mị lén uống rượu và lòng Mị thì đang sống về ngày trước. Tai Mị văng vẳng tiếng sáo gọi bạn đầu làng và Mị thấy phơi phới trở lại, trong lòng đột nhiên vui sướng như những đêm  trước Tết ngày xưa. Mị trẻ lắm cô nàng  Mị vẫn còn trẻ cô nàng Mị muốn đi chơi…

Rõ ràng, bản chất đích thực đã quay trở lại với Mị. Tất cả mọi giác quan, với cảm xúc tưởng như đã lụi tàn vì đau khổ đang sống dậy nơi Mị thấy mình còn trẻ lắm, mà còn trẻ thì phải được hưởng hạnh phúc và Vì thế nên bất chợt Mị muốn đi chơi. Nhưng khát vọng chính đáng cũng đã bị hiện thực phũ phàng vùi dập. A Sử đánh Mị, trói Mị, và Mị vẫn thả hồn lâng lâng theo tiếng sáo gọi bạn. Tiếng sáo mùa xuân, tiếng sáo gọi tình yêu khơi lên những niềm khao khát hạnh phúc trong lòng Mị. Phản ứng tự phát ban đầu của Mị và không thể giải phóng được cuộc đời cô nhưng những giây phút trỗi dậy ấy là nơi có ý nghĩa thức tỉnh. Giống như đốm lửa âm ỉ trong đám tro tàn, đến khi có ngày nó sẽ bùng cháy dữ dội khi gặp cơn gió mạnh.

Chứng kiến cảnh A Phủ bị trói, bị đánh, rồi mấy đêm đầu, Mị vẫn thản nhiên thức dậy sưởi lửa. Mị thản nhiên vì chuyện đánh người, đã trói người xảy ra thường xuyên ở nhà thống lí. Nhưng đêm nay, trông thấy dòng nước mắt bò xuống nơi hai hõm má đã xám đen lại của A Phủ, Mị không cầm lòng được. Mị thương A Phủ cũng đã bị rơi vào vòng đọa đày, khốn khổ như mình. Cô liên tưởng tới bao kẻ tôi tớ khác trong nhà này đã bị cha con tên thống lí bạo tàn đối xử dã man. Có người chết đói, chết rét sau nhiều ngày cùm trói. A Phủ kia cũng sẽ như vậy thôi và đến một ngày nào đó, Mị cũng thế và hơn bao giờ hết, ý thức về nỗi khổ, về thân phận trỗi dậy trong lòng Mị  nếu như cứ cúi đầu chấp nhận số phận có nghĩa là chấp nhận cái chết bi thảm. Từ hình ảnh đau thương của A Phủ trước mắt, và Mị liên tưởng đến tương lai mù tối, bế tắc của chính mình. Chính điều đó đã làm sống lại trái tim tưởng chừng đã đau khổ làm cho chai đá của Mị. Cô thương người, với sự thương thân. Giọt lệ bất lực và thống khổ của tên A Phủ như giọt nước cuối cùng làm tràn đầy bình nước, cảm thương số phận A Phủ, là một chàng trai dũng cảm, khỏe mạnh sắp bị cướp đi mạng sống, và Mị càng thương thân và càng căm thù cha con tên thống lí gấp bội. Cái thương cái ghét bùng lên, lấn át nỗi sợ, đến khi dẫn Mị đến hành động táo bạo ngoài ý thức là: cắt dây trói cứu A Phủ.\

Đây là hành động bộc phát xong nó là những kết quả tất yếu của cả một quá trình bị dồn nén, bức xúc về mặt tinh thần bây giờ đã đến lúc giải thoát và được đó cũng chính là biểu hiện tất yếu của một sức sống vốn đã tiềm tàng ẩn chứa trong con người đã bị Mị bấy lâu nay. Mị cắt dây trói cho A Phủ cũng là cắt đứt những dây trói cho vô hình đã cột chặt cô vào quãng đời tủi nhục. Cô chạy theo A Phủ bởi cô ý thức được nỗi khổ và với sự sống còn của mình là: ở đây thì chết mất Mị chạy theo tiếng gọi mãnh liệt của tự do, cô tự giải phóng mình khỏi nanh vuốt cho cha con tên thống lí tàn bạo. Từ trong cái địa ngục giam cầm đày ải mình suốt mấy năm qua, đã từ trong sự bủa vây tàn khốc của cái chết, Mị đã vùng dậy tìm lẽ sống, là làm lại cuộc đời.

Qua việc miêu tả diễn biến tâm lí và với sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong hoàn cảnh đau thương, tác giả Tô Hoài muốn khẳng định không bạo lực đen tối nào có thể vùi dập được sức sống và khao khát tự do của những con người ; đồng thời nhấn mạnh rằng, chỉ có sự tự vùng dậy của bản thân theo sự dẫn dắt và chính của cách mạng mới giải phóng được con người ra khỏi kiếp ngựa trâu, đã bắt nô lệ. Đó chính là giá trị nhân đạo to lớn của tác phẩm văn học.

Tham khảo thêm: