Phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

0

Phân tích Chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà hàng chài của Nguyễn Minh Châu gồm dàn ý và những bài văn mẫu siêu hay được đánh giá cao. Phân tích nhân vật người đàn bà hàng chài cũng giúp các em học sinh lớp 12 cảm nhận sâu sắc về số phận, cuộc đời và vẻ đẹp trong tâm hồn và phẩm chất của người phụ nữ ấy.

Phân tích hình ảnh người đàn bà hàng chài ta thấy được đây là một người mẹ giàu đức hi sinh và thấu hiểu lẽ đời. Một người phụ nữ vẫn giữ được vẻ đẹp truyền thống của những con người Á Đông là biết nhẫn nhịn, biết hi sinh bản thân vì gia đình và chồng con. Qua nhân vật người đàn bà hàng chài, tác giả muốn gửi đến người đọc những suy ngẫm sâu sắc về những cuộc đời, về nghệ thuật. Vậy dưới đây là những bài phân tích người đàn bà hàng chài siêu hay, mời các bạn cùng mình theo dõi ở phía dưới đây.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

a) Mở bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

  • Giới thiệu về nhà văn Nguyễn Minh Châu và truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa.
  • Dẫn dắt, giới thiệu về nhân vật chính đó là người đàn bà hàng chài.

b) Thân bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

*Tên tuổi

  • Không có tên, đã được gọi một cách phiếm chỉ là “người đàn bà hàng chài”, “người đàn bà vùng biển” và “người đàn bà” hay “mụ”.
  • Trạc tuổi ngoài bốn mươi tuổi.

=> Chỉ là một trong số ít những người đàn bà vùng biển khác, nhưng số phận con người ấy lại được nhà văn tập trung thể hiện và được người đọc quan tâm nhất trong câu truyện ngắn này.

*Ngoại hình

– Thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, rất cao lớn với những đường nét thô kệch.

– Mụ rỗ mặt với khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang rất buồn ngủ.

– Tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới và nửa thân dưới ướt sũng…

=> Hình ảnh một người phụ nữ xấu xí đã lam lũ khổ cực.

*Tính cách

  • Một người phụ nữ hiền lành, nhút nhát ấy: Khi chánh án Đẩu đề nghị chị nên ly hôn, chị ta đã van xin “con lạy quý tòa … đừng bắt con bỏ nó”.
  • Một người phụ nữ từng trải là: “Lòng các chú tốt, nhưng các chú đâu phải chính là người làm ăn…”
  • Một người phụ nữ rất giàu đức hy sinh: Nhận mọi lỗi lầm về mình “Giá tôi đẻ ít đi…”, đã hiểu được nỗi khổ của chồng “người đàn ông bản chất vốn không phải kẻ vũ phu, độc ác, khi anh ta chỉ là nạn nhân của cuộc sống đói khổ. Người chồng là chỗ dựa khi có những biển động…”.
  • Một người phụ nữ giàu tình yêu thương là khi: “Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ…”, “Vui nhất là lúc ngồi đã nhìn đàn con chúng nó được ăn no”…

c) Kết bài phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

Khẳng định lại chính vẻ đẹp của người đàn bà làng chài trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của tác giả Nguyễn Minh Châu.

2. Bài văn mẫu phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà

Phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà (mẫu 1)

Bài phân tích người đàn bà trong chiếc thuyền ngoài xa đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Nguyễn Minh Châu là một cây bút cực kì tài năng của văn học Việt Nam. Không ồn ào, khoa trương, một cách âm thầm, đã rất lặng lẽ ông đã tự tìm tòi, cách tân các sáng tác của mình. Chiếc thuyền ngoài xa chính là truyện ngắn xuất sắc không chỉ của Nguyễn Minh Châu mà còn là một thành tựu nổi bật trong suốt quá trình đổi mới của văn học Việt Nam sau 1975. Tác phẩm tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật cũng chính như tư tưởng của ông. Trong tác phẩm này ngoài nhân vật tả người đàn bà hàng chài, còn phải kể đến nhân vật chính Phùng – người nghệ sĩ có tâm và có tầm.

Trước hết, Phùng là một người nghệ sĩ tài hoa, vô cùng nhạy cảm trước cái đẹp. Phùng được trưởng phòng giao cho nhiệm vụ chụp những bức ảnh nữa để bổ sung vào bộ lịch năm ấy và đã yêu cầu nghệ sĩ Phùng là người đã thực hiện nhiệm vụ. Đây là nhiệm vụ vô cùng khó khăn, chính nghệ sĩ Phùng phải rất tài giỏi thì mới được trưởng phòng giao cho những nhiệm vụ quan trọng như vậy. Trước nhiệm vụ quan trọng, Phùng rất có trách nhiệm, và anh ngay lập tức xách máy ảnh lên đường, về vùng biển miền Trung. Trong một tuần lễ anh luôn xách máy ảnh đi từ khi sáng sớm đến khuya, đi dọc bờ biển, để có thể tìm được một bức ảnh thật sự hài lòng. Và trời đã không phụ tấm lòng, công sức anh bỏ ra, anh đã thu về về một bức ảnh trời cho.

Bức tranh ấy là những khoảnh khắc vô cùng giản dị, nhưng toát lên vẻ đẹp trong sáng, toàn bích từ màu sắc đến những đường nét, bố cục. Màu sắc là sự hòa quyện của “bầu sương mù trắng như sữa” và “màu hồng của anh mặt trời chiếu vào”. Đường nét ít sống rất tinh, bản thân nó tựa như một bức tranh mực tàu của danh họa thời cổ nơi còn bố cục thì đơn giản, song cân đối, hài hòa. Bức tranh ấy có tác động mạnh mẽ đến tâm trạng, với cảm xúc của Phùng: “Đứng trước nó tôi trở nên rất  bối rối” trong tim dường như có gì bóp thắt vào “tôi tưởng chính mình vừa khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện, khám phá thấy khoảnh khắc trong khi ngần của tâm hồn”. Qua những xúc cảm của nhân vật Phùng, ta cũng có thể thấy anh là người rất nhạy cảm trước cái đẹp, biết yêu và thật sự tôn thờ cái đẹp. Cũng từ đó, nhà văn đã đem đến cho những con người đọc một nhận thức mới mẻ: nghệ thuật chân chính trước hết đem cho ta được niềm hạnh phúc, sự thỏa mãn khi được chứng kiến hình hài, và dáng vẻ của cái đẹp. Nhưng quan trọng hơn là thứ nghệ thuật ấy giúp tâm hồn của mỗi con người được thanh lọc, hướng thiện và trở nên tươi sáng hơn. Nghệ thuật đích thực bao giờ cũng hướng đến nâng đỡ khi con người đến cái đích của chân – thiện – mỹ.

Không chỉ là một người họa sĩ tài năng, Phùng còn chính là người nghệ sĩ có tấm lòng với cuộc đời và con người. Trong lần về miền biển miền Trung, anh cũng đã chứng kiến cảnh bạo hành trong gia đình của người đàn bà hàng chài. Anh ngỡ ngàng trước khung cảnh ấy và ngay lập tức vứt chiếc máy ảnh xuống đất, nhào đến để can ngăn, đã giúp đỡ người đàn bà. Đối với một người nghệ sĩ nhiếp ảnh thì máy ảnh cũng chính là vật dụng quý nhất, cần nâng niu nhất vậy mà anh khi anh đã chứng kiến cảnh bạo hành anh không quan tâm đến những gì mà lập tức chạy đến cứu giúp người phụ nữ tội nghiệp. Đối với anh quý giá hơn cả vật chất và tinh thần, và đó là con người.

Tuy đã thực hiện xong nhiệm vụ được giao nhưng khi vẫn còn ở lại vì anh quan tâm đến gia đình hàng chài này, thấy mình không thể đứng trước ngoài cuộc mà phải làm điều gì đó. Và đó cũng là lần thứ hai anh chứng kiến cảnh mỗi người đàn bà hàng chài bị bạo hành. Lần này anh đã lao vào can thiệp, nhưng sức của một người nghệ sĩ thì không thể địch lại nổi sức khỏe của một người đàn ông lực lưỡng, anh ấy  đã bị thương. Nhưng với tấm lòng của mình, anh nhất quyết không yên tâm, mà nhờ đến sự giúp đỡ của chánh án tòa án cấp huyện.

Và một đặc điểm quan trọng nhất của người nghệ sĩ này chính là luôn trăn trở với thiên chức nghề nghiệp của  chính bản thân mình. Trước hết, đó là nhận thức qua hai phát hiện ban đầu của Phùng đó là: cái đẹp gắn liền với cái thiện và phát hiện cái xấu, cái ác. Trong lần đầu tiên, đã nhìn thấy khung cảnh trời cho, Phùng đã vô cùng nghẹn ngào xúc động, cái khoảnh khắc ấy khiến trong tâm hồn anh trở nên đẹp đẽ, và cũng trong sáng hơn. Ở đây cái đẹp gắn liền với cái thiện, với hướng con người đến cái đích của chân – thiện – mỹ. Nhưng ngay sau bức tranh toàn mỹ đó lại là hiện thực nhói lòng, cảnh người đàn bà hàng chài bị đánh, khiến Phùng bàng hoàng nhận ra, cái xấu, cái ác đằng sau bức tranh mơ mộng kia. Chiếc thuyền ngoài xa chính là hình ảnh cuộc đời khi ta đã nhìn nó một cách hời hợt. Bởi vậy, Phùng đã rút ra cho mình nhận thức đầu tiên khi nhìn nhận con người, sự việc phải nhìn ngắm, thật kỹ lưỡng, nhiều chiều.

Không dừng lại ở đó, qua câu chuyện người đàn bà hàng chài đã kể ở tòa án huyện, Phùng còn nhận thức ra nhiều điều về cuộc đời và những con người. Thì ra cuộc đời không đơn giản, xuôi chiều như anh cũng vẫn nghĩ, mà nó vô cùng đa đoan, phức tạp. Cuộc sống tồn tại rất nhiều nghịch lý, éo le mà đôi khi ta không thể thay đổi, chỉ có thể học cách và chấp nhận chúng. Và con người cũng không đơn giản, xuôi chiều mà phức tạp, đa chiều. Trong mỗi con người tồn tại cả rồng, phượng, rắn rết cả cái cao cả lẫn cái thấp hèn. Nhận thức được sự không hoàn hảo của con người, nên nhà văn Nguyễn Minh Châu đã đặt ra yêu cầu phải có cái nhìn bao dung, độ lượng và nhân văn hơn khi xem xét và đánh giá con người.

Bức tranh một lần nữa xuất hiện cuối tác phẩm, đã đem đến những nhận thức mới cho người nghệ sĩ Phùng. Đằng sau lớp sương hồng được ánh nắng chiếu vào là thấp thoáng chân dung của người đàn bà trên thuyền. Qua hình ảnh đó, Phùng nhận ra rằng nghệ thuật càng không phải là phương tiện ghi lại hình xác cuộc sống mà nó còn phải bắt được linh hồn, chính trung tâm của cuộc sống là con người. Nhắc lại những đặc điểm của người đàn bà cho thấy con người giản dị, vô danh nhưng mang trong minh với sự vị tha, kiên cường chính là đối tượng để nghệ thuật hướng đến những ngợi ca. Nghệ thuật phải gắn liền với cuộc sống, không được xa rời của cuộc sống và phải quay trở về để phục vụ với cuộc sống.

Với nhân vật Phùng, tác giả Nguyễn Minh Châu đã gián tiếp thể hiện những quan điểm, tư tưởng nghệ thuật của chính mình. Không dừng lại ở đó, nó còn là quan niệm về những con người và cuộc đời. Đây là những quan niệm hết sức sâu sắc và mới mẻ, đã cho thấy sự thay đổi quan niệm về con người của ông. Đặt nhân vật vào những tình huống nhận thức khác nhau, cũng đã giúp Nguyễn Minh Châu làm nổi bật tư tưởng, chủ đề của nhiều tác phẩm.

Phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà (mẫu 2)

Bài phân tích người đàn bà trong chiếc thuyền ngoài xa do học sinh chuyên văn trình bày để các bạn tham khảo:

Người nghệ sĩ vốn là người dành suốt đời đi tìm cái đẹp, cái toàn mỹ toàn thiện. Thế nhưng không phải vẻ đẹp nào cũng chỉ đơn giản mà có thể nó còn ẩn giấu những sự thật không hoàn mỹ bên trong đó. Câu chuyện về người đàn bà hàng chài trong tác phẩm của Chiếc thuyền ngoài xa của nhà văn Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta cái nhìn sâu sắc về bản chất của cuộc sống, nơi nhìn sâu vào mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Một bức tranh thuyền và biển đã “toàn bích” nhưng lại ẩn chứa trong đó là số phận đau khổ của biết bao người lao động nghèo mà điển hình là người đàn bà hàng chài. Từ đó, chúng ta có thể thấy được những giá trị nhân đạo sâu sắc mà tác giả gửi gắm.

Chiếc thuyền ngoài xa chính là câu chuyện của người nghệ sĩ nhiếp ảnh Phùng trong chuyến công tác đi tìm của một bức ảnh cho bìa cuốn lịch mới. Trong chuyến đi đó, anh đã chọn nơi chiến trường cũ của chính mình để tìm nguồn cảm hứng và quả thực, anh đã có được một bức ảnh để đời, với một bức ảnh với vẻ đẹp “đơn giản và toàn bích”. Thế nhưng, khi anh có vốn tưởng rằng mình đã “khám phá thấy cái chân lý của sự toàn thiện” thì một cảnh bạo lực gia đình, chồng đánh đập vợ với một cách dã man đã diễn ra ngay trước mắt anh, mà đôi vợ chồng đó đã lại chính là những người bước ra từ con thuyền đẹp đẽ nơi vừa nãy. Phùng đã vô cùng ngạc nhiên khi người vợ ấy, người đàn bà hàng chài ấy không có chút phản kháng, mụ để mặc cho người chồng đánh mình trong cơn giận dữ tột độ. Có lẽ lúc đó, Phùng cũng tự hỏi như chúng ta, người đàn bà hàng chài đó chính là người như thế nào? Tại sao lại cam chịu trận đòn roi một cách nhẫn nhịn đến như thế?

Người đàn bà xuất hiện trong tác phẩm qua những lời giới thiệu của Phùng. Đọc đến hết câu chuyện, nhưng người ta vẫn không hề biết tên người đàn bà ấy. Nếu như những nhân vật khác, họ càng đều có một cái tên rõ ràng để xưng hô, để gọi như Đẩu, như thằng Phác,… thì ra người đàn bà này lại chỉ được gọi bằng một cái tên phiếm chỉ chính “người đàn bà hàng chài” hay “mụ”. Kể cả khi mụ ta đến toà án huyện, gặp Đẩu, và ta cũng không biết tên mụ là gì. Bởi phải chăng mụ là đại diện, là hiện thân cho nhiều hàng trăm hàng ngàn những số phận người đàn bà ở những vùng biển khác nhau, đã cũng cơ cực như thế, cũng vô danh, cũng phải sống trong khắc nghiệt và sự thống khổ như thế?

Người đàn bà ấy qua lời kể của nhân vật Phùng vô cùng ấn tượng, không phải bởi vẻ đẹp mà bởi vì xấu xí, thô kệch và không hề ưa nhìn. Đó là người đàn bà “xấu, rỗ mặt” lại mang “thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, người cao lớn với những đường nét thô kệch”. Không chỉ thế, ở mụ, người ta thấy toát lên một sự lam lũ, có một dáng vẻ kham khổ của một trong những người phụ nữ nhà quê “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm đã thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như buồn ngủ” với “tấm lưng áo bạc phếch và rách rưới”. Sự khốn khó ấy còn thể hiện khi mụ đến toà án trên huyện với sự “lúng túng và sợ sệt”, “tìm đến một góc tường để ngồi”, dáng vẻ ấy cũng là dáng vẻ của một người mang đầy những mặc cảm, và tự ti. Thậm chí khi Đầu mời mụ ngồi vào ghế, mụ cũng “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và với cố thu người lại”. Dáng vẻ của mụ thật khiến người ta phải tội nghiệp, đã thương cảm làm sao! Tạo hoá dường như đã trút hết những sự bất hạnh của cuộc đời lên con người mụ, từ ngoại hình xấu xí, cũng đến sự nghèo khổ, đến số phận đau đớn.

Đọc từng câu chữ, với người ta thấy ở đó là niềm thương cảm sâu sắc mà Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm và ông cảm thông, thấu hiểu, thương xót cho những số phận bất hạnh của con người đàn bà ấy. Thế nhưng, không chỉ dừng lại ở sự thương cảm ngoại hình, khiến ông còn đi sâu khám phá thêm về cuộc sống, số phận của người đàn bà ấy, đã để thương cảm hơn cho số phận con người. Và quả thật, số phận, với cuộc đời của người đàn bà ấy tràn đầy những đau khổ và bất hạnh vô cùng!

Người đàn bà hàng chài vốn được sinh ra đến trong một gia đình khá giả, thế nhưng vì “một bận lên đậu mùa” mà mụ bị “rỗ mặt”. Vừa xấu lại vừa rỗ mặt khiến mụn bị xa lánh, “không ai trên phố lấy” để rồi mụ “có mang với một anh con trai của một nhà hàng chài giữa phá”. Tạo hoá đã đưa đẩy cuộc đời mụ từ những bất hạnh này đã sang bất hạnh khác, thế nhưng, sự bất hạnh thực sự bắt đầu từ khi mụ lấy chồng!

Cuộc sống của một người đàn bà chài lưới, với quanh năm suốt tháng ở trên biển thế nhưng lại chưa từng một ngày nào no đủ. Quanh năm, mụ chỉ lo từng bữa cho đám con nhỏ nheo nhóc. Lam lũ, khổ cực là thế, nhưng cái đói, và cái nghèo đeo bám mụ từng ngày khiến mụ không muốn dám rời xa cái thuyền kia để “lên bờ” sống, bởi “không bỏ nghề được”, đã bỏ nghề thì sẽ không có ăn. Cuộc sống lênh đênh trên biển đã khiến cuộc sống của gia đình mụ rất chi bấp bênh đến độ, có khi “ông trời làm động biển suốt háng tháng, và cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối”. Có còn cái đói, cái nghèo nào đến mức đó hay sao, khi mà chiến tranh đã qua đi, và cho  dù rằng, người đàn bà đó phải thức trắng hàng đêm, phải làm lụng mỗi khi vất vả mỗi ngày?

Đói nghèo đã khổ, cơ cực đủ điều, thế nhưng cái mệt về thể xác chẳng thể nào đau đớn bằng những trận đòn roi tàn bạo từ những người chồng. Dường như mụ ngày nào cũng phải chịu nỗi hành hạ với tinh thần đau đớn đó “ba ngày một trận nặng, năm ngày một trận nhẹ”, thế nhưng lại chẳng thể có thể phản kháng, đổi lại chỉ có sự cam chịu đến tận cùng.

Nguyễn Minh Châu cũng đã thể hiện sự thương xót vô cùng với số phận của người đàn bà hàng chài. Sự nghèo túng, với gánh nặng về cơm áo đã khiến cho mụ rơi vào cái vòng tròn của sự bất hạnh. Từ hình ảnh của chính người đàn bà ấy, tác giả còn muốn nói với người đọc những trăn trở đến của mình về cuộc chiến đấu chống lại cái đói, cái nghèo. Cũng giống như giặc ngoại xâm là, “giặc đói, giặc dốt” cũng là một cuộc chiến mà chúng ta cần chúng ta phải  đánh đuổi. Bởi còn đói còn nghèo thì cái xấu cái ác vẫn sẽ còn rất tiếp diễn.

Qua từng trang văn học của Việt Nam, người ta vẫn luôn luôn thấy ánh lên ở chính mỗi người phụ nữ vẻ đẹp tâm hồn cao cả và ở người phụ nữ hàng chài này, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã làm cho vẻ đẹp tâm hồn ấy thăng hoa tuyệt vời, hoàn toàn đối lập với vẻ ngoài rách rưới, và cực khổ sở của mụ. Có thể nói, vẻ đẹp khuất lấp của người đàn bà ấy thể hiện trong mỗi  khía cạnh, trong mọi mặt mà đầu tiên là vẻ đẹp của một người phụ nữ đã từng trải, sâu sắc đến khi thấu hiểu và bao dung vô cùng.

Nếu như Phùng và Đẩu bất bình trước sự độc ác của nhiều những người chồng thì những lời lẽ của người đàn bà hàng chài đã khiến cho những người từng “vào sinh ra tử”, những trí thức như họ đã biến thành những người đàn ông thật nông nổi, luôn hời hợt vô cùng.

Mụ đã kể cho Phùng, cho Đẩu nghe về chính cuộc đời mình, cho họ biết lý do tại sao mụ lại cam chịu sự vũ phu của người chồng. Bởi mụ hiểu tất cả đều do hoàn cảnh ép buộc, và xô đẩy cuộc đời họ đến bước đường hôm nay. Nếu ngày xưa, chồng chị là “một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, sẽ không bao giờ đánh đập tôi” nhưng do cuộc sống, cái vòng luẩn quẩn của cảnh đói nghèo, đông con “giá như tôi đẻ ít đi, hoặc chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng lớn hơn”, đã đẩy hắn trở nên tha hoá, trở thành một kẻ vũ phu, của kẻ tàn nhẫn. Chắc hẳn, người đàn bà ấy phải là người thấu đáo, sẽ  suy xét cẩn thận mới có thể hiểu được lẽ đời biến chuyển như thế!

Và người đàn bà cũng chỉ rõ cho Đẩu và Phùng thấy sự thiếu thực tế của họ rằng làm nghề chài lưới, cũng cần người đàn ông “để chèo chống khi phong ba, để làm ăn nuôi nấng một đặng sắp con” và “là bởi vì các chú không phải là đàn bà, chưa bao giờ các chú biết như thế nào chính là nỗi vất vả của người đàn bà trên một chiếc thuyền không có đàn ông”. Người đàn bà ấy khi đã chỉ ra cái khó khăn, cơ cực của người phụ nữ khi mưu sinh trên biển, và khi mà những hiểm hoạ luôn bất chợt và tiềm ẩn. Mụ cũng biết rằng “từ ngày cách mạng về đỡ đói khố” và thế nhưng những bất cập mà chính quyền chưa giải quyết được, cùng với đó là cấp đất cho dân chài nhưng “chẳng ai ở vì không bỏ nghề được”. Đến lúc đó, nhân vật Đẩu và Phùng mới dường như chợt “vỡ ra” nhiều điều, giải pháp, sự thiện chí của chính họ vô cùng phi thực tế, và họ có lẽ cũng cảm phục người đàn bà nhà quê kia nơi nhưng lại thấu hiểu cuộc đời, thấu hiểu con người đến khi nhường ấy!

Vẻ đẹp của người đàn bà hàng chài càng không chỉ thể hiện ở sự hiểu thấu cuộc đời mà còn ở tấm lòng nhân hậu, với sự bao dung và tình mẫu tử sâu sắc. Người đàn bà ấy hàng ngày phải chịu những trận đòn roi thật độc ác “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” của người chồng không phải vì ngu muội, đã không dám phản kháng, cũng không phải mụ đã gây nên tội tình gì mà chính là vì mụ muốn để người chồng được giải toả tất cả những u uất, nơi những dồn nén chất chứa trong lòng. Mụ hi sinh thân mình để ngày mai, với vợ chồng mụ lại trở lại con thuyền, lại bắt đầu cuộc sống mưu sinh vốn đầy những cơ cực. Cách xử sự của người đàn bà ấy đã khiến cho người đọc chúng ta không chỉ thương xót mà còn vô cùng cảm phục nữa. Bởi đó là cách xử sự của một trong những hiểu rõ bổn phận và trách nhiệm của mình và cố gắng và thực hiện nó dù nó phi lý và đau đớn vô cùng.

Nếu như Đẩu và Phùng vô cùng bất bình với những trận đòn man rợ của tên đàn ông dành cho vợ “cả nước không có một người chồng nào như hắn” thì chính  người đàn bà hàng chài lại luôn luôn không hề trách cứ người chồng của mình. Mụ nhận hết mọi lỗi lầm về chính bản thân “giá như tôi đẻ ít đi”, “cái lỗi chính là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá” và khi “ông trời sinh ra người đàn bà là để đẻ con, rồi nuôi con cho đến khi khôn lớn cho nên phải gánh lấy cái khổ”. Dường như tất cả mọi tội lỗi cũng đều thuộc về người đàn bà, mọi khó khăn đều bắt nguồn từ chính mụ, thế nên, nơi mụ chưa từng một lời than trách người chồng và luôn miệng xin rằng “quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó”. Đọc đến đây, mỗi chúng ta không khỏi xúc động, cảm phục tấm lòng vị tha, nhân hậu của người đàn bà hàng chài xấu xí ấy. Còn ẩn chứa trong một vẻ ngoài xấu xí, lại là một nhân cách cao cả vô cùng!

Tình mẫu tử vốn là thiên tính của người phụ nữ, và người đàn bà này cũng vậy, mụ cũng yêu thương con mình vô cùng. Sự yêu thương ấy là lý do để mụ cam chịu những trận đòn roi man rợ bởi mụ càng muốn có người đàn ông để cùng mình “nuôi đặng một sắp con”. Và cũng vì thương con, sợ con chịu tổn thương tinh thần vì hoàn cảnh bạo lực gia đình nên mụ đã xin chồng đưa mình lên bờ để đánh “sau này, con cái lớn lên, tôi mới xin được lão đưa tôi lên bờ mà đánh”. Còn người phụ nữ nào có tình mẫu tử hơn thế, sẽ nhận hết mọi đau thương về mình “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không chỉ  sống cho mình như ở đất được”, chỉ mong đàn con được ăn no mà khôn lớn lên. Và cũng vì sợ thằng con làm gì dại dột với bố mà chị đã cắn răng đã  gửi nó lên bờ cho ông ngoại nuôi nấng dù đó là đứa con chị yêu thương nhất cuộc chính cuộc đời mình. Tình thương con của người mẹ ấy chưa từng một lần được đã thể hiện trực tiếp nhưng lại diễn ra trong âm thầm. Khi đứa con chứng kiến cái cảnh tàn bạo ấy, con người đàn bà đã đau đớn và xấu hổ đến chừng nào, “người đàn bà dường như lúc này mới cảm thấy đau đớn – vừa đau đớn vừa xấu hổ, nhục nhã”. Mụ ôm con trong nước mặt chính những sự“mếu máo, ôm chầm” lấy nó rồi “vái lấy vái để”. Cuộc đời của mụ có lẽ chỉ sống vì những đứa con, còn khi mụ chỉ đau đớn khi làm tổn thương con cái chứ chưa từng thấy đau đớn cho chính bản thân mình.

Chính chúng ta cũng phải tự hỏi, với cuộc sống như người đàn bà ấy, liệu có khi nào được hạnh phúc hay chưa? Câu trả là lời có! Và có lẽ khoảnh khắc chính là mà mụ hạnh phúc nhất đời là khi đến mức “ngồi nhìn đàn con tôi chúng nó được ăn no” và gia đình được hòa thuận. Đó là khoảnh khắc mà gương mặt xấu xí của chính mụ “lần đầu tiên, chợt bừng sáng lên như một nụ cười”. Tất cả đó là vẻ đẹp, là sự thiêng liêng của tình mẫu từ và tình yêu thương con, sống vì con. Người đàn bà ấy cũng như vô vàn của những người phụ nữ trên đất nước Việt Nam, bao dung, nhân hậu, vị tha, luôn luôn kiên cường chịu đựng, hy sinh vì con cái.

Hình ảnh về người đàn bà đã để lại một ấn tượng sâu đậm trong lòng của người nghệ sĩ Phùng và cả trong lòng người đọc chúng ta. Những nét khắc họa từ ngoại hình đến hành động, với lời nói,… đã khiến người đàn bà hàng chài ấy trở thành biểu tượng cho những người phụ nữ miền biển thật đáng thương. Và hình tượng người đàn bà ấy đã giúp tác giả Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc của mình. Đó là sự thương cảm, thấu hiếu dành cho những số phận thật bất hạnh bị nghèo đói, bạo lực bủa vây, nhưng ở họ, và vẫn sáng ngời những phẩm chất tốt đẹp, nhân hậu, vị tha.

Phân tích chiếc thuyền ngoài xa người đàn bà (mẫu 3)

Bài phân tích người đàn bà trong chiếc thuyền ngoài xa học sinh giỏi văn viết được thầy/cô đánh giá cao để các bạn tham khảo:

Nguyễn Minh Châu là nhà văn tiêu biểu cho nền văn học Việt Nam thời chống Mĩ, cũng là “người mở đường tinh anh và tài năng” tác giả (Nguyên Ngọc) cho công cuộc đổi mới văn học từ sau 1975. Nhà nghiên cứu hàng đầu Nga Nikulin đã nhận xét: “Các nhân vật của Nguyễn Minh Châu trước năm 1980 được Nguyễn Minh Châu tắm rửa sạch sẽ, được bao bọc trong bầu không khí thật vô trùng”. Ta có thể thấy điều ấy qua nhân vật Nguyệt trong những “Trăng sáng”. Giai đoạn sau này, nổi bật là truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” đã mang nhiều cảm hứng thế sự cùng những triết lý nhân sinh hơn. Nhưng quan điểm sáng tác của ông là “gắng đi tìm các hạt ngọc còn những ẩn giấu trong bề rộng tâm hồn con người” thì không thay đổi. Nhân vật trung tâm của những tình huống truyện nghịch lý trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa” của chính là người đàn bà hàng chài. Từ nhân vật này, nhà văn bộc lộ một tấm lòng nhân đạo và gửi gắm những bức thông điệp về nghệ thuật và khi cuộc đời.

Đọc tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” ta thấy nhân vật được người đàn bà hàng chài được nhà văn giới thiệu là người đàn bà trạc ngoài bốn mươi . Và khi đề cập đến nhân vật này Nguyễn Minh Châu đã không gọi bằng một cái tên cụ thể nào cả mà gọi một cách phiếm định: “mụ”, “người đàn bà nơi hàng chài”…Việc nhà văn không đặt tên cho nhân vật của mình không phải ngẫu nhiên vô tình mà đó là một dụng ý có nghệ thuật sâu xa: Ông muốn nhấn mạnh đây chỉ là một trong vô số những người đàn bà đau khổ, thật bất hạnh, cần cảm thông sẻ chia mà thôi.

Người đàn bà hàng chài mang một thân hình quen thuộc của những người đàn bà vùng biển với những nét thô, mặt rỗ “khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đã buồn ngủ. Đây chính là hình ảnh một người lao động lam lũ và đau khổ cùng có lẽ gánh nặng của cuộc mưu sinh đầy sóng gió trên biển cả đã lấy đi tất cả của chị là: sinh lực, niềm vui và sức sống. Sự nghèo khổ nhọc nhằn đến mức nhác, cùng thảm hại còn hiện rõ trong chi tiết miêu tả tấm lưng áo bạc phếch, rách rưới, với nửa thân dưới ướt sũng. Sự khốn khổ của chị còn hiện ra ngay trong dáng vẻ của sự: ” sợ sệt, lúng túng” khi ở tòa án, “tìm đến một góc tường để ngồi”. Thậm chí khi Đẩu phải mời đến những lần thứ hai chị mới “rón rén đến ngồi ghé vào mép chiếc ghế và cố thu khép người lại”. Có lẽ đó là dáng vẻ của một con người tội nghiệp luôn cho thấy sự có mặt của mình trong cuộc đời này là một phi lý, luôn mặc cảm, tự ti và do đó muốn giảm thiểu sự thật vướng víu, phiền phức đến khó chịu mà mình và có thể gây ra cho mọi người xung quanh.

Nguyễn Minh Châu cũng không chỉ dừng lại ở vẻ ngoài của nhân vật mà ngòi bút thấm đẫm tinh thần nhân đạo chính những suy nghĩ của ông đã lách thật sâu để khám phá cho được cái mạch ngầm hiện thực về số phận bất hạnh của những người đàn bà hàng chài. Ấn tượng lớn nhất về sự bất hạnh mà người đàn bà đưa và đã cho người đọc chính là thái độ cam chịu nhẫn nhục của chị. Khi đi qua bãi xe tăng hỏng trước khi  lúc đã đến bên chiếc xe, người đàn bà đứng lại “ngước mắt nhìn ra ngoài ….rồi đưa một cánh tay lên định gãi hay đi sửa lại mái tóc nhưng rồi lại buông thõng xuống đưa cặp mắt đã nhìn xuống chân”. Có thể nhận thấy đây là nơi quá quen thuộc với chị, một sự quen thuộc thật khủng khiếp bởi những trận đòn đã thành lệ của người chồng là: ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng. Cặp mắt nhìn xuống chân mệt mỏi cũng như một kẻ tội đồ chờ đợi một hình phạt không tránh khỏi. Khi bị đánh dã man, mỗi người đàn bà chịu đòn với vẻ cam chịu nhẫn nhục, đó là thái độ của một con người đang thật sự nhẫn nhục thực hiện nghĩa vụ đau khổ của mình, không oán thán, không bất bình và không né tránh.

Người đàn bà hàng chài không những chỉ bị hành hạ về mặt thể xác, mệt mỏi sau những đêm thức trắng kéo lưới, cũng không chỉ chịu đựng những đau đớn từ những trận đòn tàn bạo của người chồng vũ phu mà lại còn bị giày vò nặng nề về những đau đớn tinh thần, về sự non nớp lo sợ con cái bị tổn thương khi phải chịu chứng kiến những cảnh đời trái ngang. Mô tả hình ảnh một người mẹ vừa khóc vừa phải “chắp tay vái mấy vái để đứa con để nó đừng phạm phải những  tội ác trái luân thường đạo lí”. Nguyễn Minh Châu đã thể hiện nỗi xót thương cho sự đau khổ cùng cực của chính người đàn bà hàng chài. Chưa hết, chị còn bị gánh nặng cơm áo, cuộc sống nghèo túng đã đẩy vào cái vòng quẩn quanh bất hạnh. Trước 1975 mỗi khi biển động cả nhà toàn ăn xương rồng luộc rồi chấm cùng muối. Khi cách mạng về cuộc sống đỡ đói khổ hơn là những nỗi lo cơm áo vẫn còn đó.

Từ thân phận người đàn bà hàng chài, nhà văn Nguyễn Minh Châu muốn gợi ra cho người đọc những suy nghĩ âu lo: cuộc chiến đấu chống lại sự đói nghèo tăm tối và bạo lực còn gian nan lâu dài hơn của cuộc chiến đấu chống ngoại xâm. Và chừng nào còn chưa thoát khỏi cuộc sống đói nghèo khi chừng đó con người vẫn phải chung sống với cái xấu, cái ác. Chúng ta đã đổ xương máu trong biết bao năm qua để giành được độc lập tự do trong cuộc chiến đấu vì chính quyền sống của cả dân tộc. Nhưng chúng ta sẽ còn phải tiếp tục làm gì đây trong cuộc chiến đấu giành quyền sống của mỗi con người, làm gì để đem lại cơm ăn áo mặc và ánh sáng văn hóa cho biết bao con người đang đắm chìm trong kiếp sống đói nghèo nơi tăm tối.

Nếu bạn đọc từng yêu nhân vật nữ trong những sáng tác của Nguyễn Minh Châu thì sẽ thấy không ở đâu yếu tố “thiên nữ tính” lại thăng hoa tuyệt vời như ở những người đàn bà rách rưới này. Vẻ đẹp khuất lấp mà người đọc cảm nhận được trước những hết ở người đàn bà hàng chài đó là vẻ đẹp sâu sắc từng trải. Nói chuyện với Đẩu và Phùng, cùng người đàn bà hàng chài quê mùa thất học hiểu lẽ đời khiến Đẩu và Phùng đã trở thành những người nông nổi, hời hợt. Trong khi Đẩu và Phùng bất bình trước người chồng tàn nhẫn, khi thấy ông ta là kẻ độc ác nhất thì người đàn bà hàng chài đã giúp họ nhận ra biết bao điều sâu xa của cuộc sống. Chị cho biết: chồng chị vốn là anh con trai hiền lành, nơi cục tính, nhưng rơi vào cuộc sống luẩn quẩn, bế tắc cho nên trở thành kẻ tha hóa, đã vũ phu tàn nhẫn. Đó là một sự nhìn nhận sâu xa, thấu hiểu lẽ đời. Người đàn chỉ rõ sự thiếu thực tế của Đẩu và nhân vật Phùng: “Lòng các chú đâu phải là người làm ăn…cho khi nên các chú đâu có hiểu được cái việc của người làm ăn lam lũ cực khó nhọc”. Người đàn bà hàng chài đã chỉ ra một hiện thực tàn nhẫn là: họ cần một người đàn ông để chèo chống lúc phong ba sóng gió dù hắn có man rợ, có tàn bạo đến đâu. Như vậy, chị đã cho Phùng và Đẩu thấy được những sự khó khăn gấp bội của những người đàn bà trong những cuộc mưu sinh trên biển cả, và luôn bất cập, tiềm ẩn những hiểm họa, đe dọa. Người đàn bà hàng chài còn chỉ ra sự bất cập trong khi cuộc sống của Đảng, của chính quyền Cách mạng. Chị cho thấy từ ngày cách mạng về, nơi cách mạng đã cấp đất cho họ nhưng chẳng ai ở vì không thể bỏ được nghề bởi sự tồn tại của họ gắn chặt với nghề. Tiếng thở dài của Đẩu, câu hỏi băn khoăn, với sự tò mò của Phùng, cảm giác bất lực của hai người khi nhận ra những giải pháp xuất phát từ lòng tốt và thiện chí của họ đã trở nên phi thực tế. Những điều đó đã tạo ra một đối sánh với người đàn bà hàng chài từng trải, hiểu đời, hiểu người, nhưng hiểu những điều có thể và không thể. Sự sâu sắc của chị khiến người đọc cảm phục nhưng cũng vô cùng xót thương cho một kiếp người.

Người đàn bà hàng chài chấp nhận những trận đòn roi vũ phu độc ác của người chồng không phải vì chị ngu muội. Cũng không phải vì chị có tội lỗi gì với chồng mà chị cam chịu, vẫn nhẫn nhục những trận đòn đó không chỉ vì trên thuyền cần một người đàn ông mà còn như một cách nào giúp người chồng vơi đi những u uất khổ sở chất chứa trong lòng. Đó là cách xử sự của một con người hiểu rõ bổn phận nghĩa vụ của chính mình và gắng thực hiện cho xong, đâu đó là những bổn phận và nghĩa vụ phi lí. Không chỉ thấu hiểu xót xa cho nỗi khổ của nhiều người chồng, người đàn bà hàng chài còn mang một mặc cảm tội lỗi khi đã cho rằng “giá tôi đẻ ít đi” hoặc “chúng tôi sắm được một chiếc thuyền rộng lớn hơn”. Nếu Đẩu và Phùng đều kinh ngạc và bất bình thay cho sự cam chịu nhẫn nhục của nhiều người vợ bị chồng hành hạ thì khi hiểu được nguyên nhân của thái độ ấy, họ càng kinh ngạc vì sự nhân hậu, và lòng vị tha của tấm lòng người đàn bà hàng chài.

Tình mẫu tử đã  được người đàn bà ý thức sâu sắc như một thiên tính đương nhiên của người phụ nữ “đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không  thể nào sống cho mình”. Chính tình thương yêu sâu sắc với con đã khiến chị nhẫn nhục chịu đựng sự tàn nhẫn của người chồng vì cũng muốn có một người đàn ông khỏe mạnh biết nghề cùng mình làm ăn nuôi nấng các con của mình . Cũng vì sợ con tổn thương trước cảnh bạo lực gia đình, nơi chị đã xin chồng đưa mình lên bờ mà đáng, sợ đứa con làm điều gì dại dột với bố nó, cho đến người đàn bà hàng chài đã phải cắn răng gửi đứa con chị yêu thương nhất lên bờ sống với ông bà ngoại. Ở người đàn bà thầm lặng ấy là,” tình thương con cũng như nỗi đau, cũng như cái sự thâm trầm trong việc thấu hiểu nơi các lẽ đời hình như mụ chẳng bao giờ để lộ rõ rệt ra bề ngoài”. Khi đứa con chứng kiến cảnh tàn nhẫn đó, nhiều người đàn bà “mếu máo” gọi con rồi “chắp tay vái lấy vái để” ôm chầm nó, bởi khi chị sợ tình yêu thương, với sự ngây thơ non nớt cùng lòng căm giận, u tối trong thằng bé sẽ hành động dại dột. Tiếng khóc của chính tình thương con và nỗi đau quặn thắt trong trái tim người mẹ, vừa đau đớn vừa xấu hổ và nhục nhã. Chị đau đớn vì làm con tổn thương rồi mới đau cho bản thân mình đến khi nhắc đến những lúc hòa thuận trên thuyền khuôn mặt xám xịt chợt bừng sáng lên những một nụ cười. Đó là ánh sáng, là những vẻ đẹp của tình mẫu tử, mọi niềm vui nỗi buồn đều đã xuất phát từ ” vui nhất là lúc ngồi nhìn đàn con chúng nó được ăn ngon”. Thấp thoáng trong hình ảnh của người đàn bà hàng chài là bóng dáng của người phụ nữ Việt Nam nhân hậu, bao dung, kiên cường chịu đựng, giàu lòng vị tha đức hi sinh “biết hi sinh nhưng chẳng nhiều lời” nhà thơ Tố Hữu.

Người đàn bà ấy đã để lại một ấn tượng sâu sắc để có nhiều năm sau tồn tại, khi nhìn lại “bức ảnh Chiếc thuyền ngoài xa” bây giờ người nghệ sĩ Phùng cũng thấy người đàn bà bước ra khỏi tấm ảnh…hòa lẫn với đám đông. Đó là hình ảnh của những con người vô danh khốn khổ trong hoàn cảnh cuộc sống lầm lũi đời thường. Họ đã kiên cường vượt lên tất cả, không phải vì mình mà chính  là vì những người thân yêu.

Qua những nét khắc họa ấn tượng từ ngoại hình dáng vẻ cho đến cử chỉ, lời nói, hành động…nhân vật người đàn bà hàng chài đã trở thành một trong những biểu tượng đầy ám ảnh giúp Nguyễn Minh Châu thể hiện tư tưởng nhân đạo sâu sắc cho bản truyện ngắn. Đó là niềm cảm thương và nỗi lo âu cho số phận con người bất hạnh bị cầm tù trong đói nghèo và khốn khổ, bạo lực. Đồng thời thể hiện niềm tin yêu trân trọng nhiều phẩm chất tốt đẹp trong tâm hồn, nhưng tính cách những con người luôn sống cuộc sống lòng người nhân hậu, lòng vị tha.

Tham khảo thêm: