Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt – Mời các bạn tham khảo một số bài văn mẫu phân tích tình trong truyện ngắn “Vợ nhặt” của tác giả Kim Lân đã được tổng hợp trong bài viết dưới đây.
Tham khảo thêm:
- Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt
- Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
- Phân tích bài Vợ nhặt
- Mở bài Vợ nhặt hay nhất
- Kết bài Vợ nhặt hay
1. Dàn ý phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
a) Mở bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
– Giới thiệu sơ lược qua về tác giả và tác phẩm Vợ Nhặt:
b) Thân bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
– Nhà văn Kim Lân là nhà văn một lòng một dạ đi về với “đất”, với “người”, với “thuần hậu nguyên thủy” của cuộc sống nông thôn.
– Nạn đói những năm 1945 đã đi vào nhiều trang viết của các nhà văn và nhà thơ trong đó có Vợ nhặt của Kim Lân.
– Dẫn dắt và giới thiệu vấn đề : Những tình huống truyện độc đáo trong Vợ Nhặt.
thân bài
* Khái niệm về tình huống truyện (Tình huống truyện là gì?)
– Những tình huống truyện là hoàn cảnh riêng được tạo nên bởi một sự kiện đặc biệt và tại đó cuộc sống hiện lên đậm đặc nhất và bộc lộ rõ nét nhất ý đồ tư tưởng của tác giả.
– Những tình huống truyện giữ vai trò là hạt nhân của cấu trúc thể loại.
* Phân tích về tình huống nhặt vợ
– Bối cảnh xây dựng và tình huống truyện:
- Bối cảnh nạn đói rất khủng khiếp năm 1945 mà kết quả là hơn hai triệu người chết.
- Một không khí ảm đạm, thê lương và những người sống luôn bị cái chết đe dọa.
– Tóm tắt tình huống: Vốn là một anh chàng dân ngụ cư, xấu trai và ế ẩm lại nghèo, thế mà Tràng đã “nhặt” được một cô vợ một cách ngẫu nhiên và quá dễ dàng ngay trong những ngày đói chỉ bằng mấy câu hát và mấy lời bông đùa “tầm phơ tầm phào”, mấy bát bánh đúc…
Những chi tiết độc đáo của các tình huống truyện:
– Ở Tràng hội tụ và nhiều yếu tố khiến nguy cơ “ế” vợ rất cao:
- Ngoại hình xấu xí của Tràng.
- Tính tình có những phần không bình thường.
- Ăn nói cộc cằn và thô lỗ.
- Nhà nghèo và đi làm thuê nuôi mình và mẹ già.
- Nạn đói đe dọa đến cái chết đeo bám.
– Tràng lấy vợ là mang theo cho mình thêm một tai họa (theo lô gíc tự nhiên).
– Việc Tràng lấy vợ là một trong những tình huống bất ngờ
- Cả xóm ngụ cư rất ngạc nhiên.
- Bà cụ Tứ cũng rất ngạc nhiên
- Bản thân Tràng có vợ rồi vẫn còn hơi “ngờ ngợ”.
– Những tình huống truyện rất bất ngờ nhưng rất hợp lí:
- Nếu không phải là năm đói khủng khiếp thì “người ta” không ai thèm lấy một người như Tràng.
- Tràng lấy vợ theo kiểu như “nhặt” được.
* Giá trị của những tình huống trong truyện Vợ nhặt
→ Giá trị hiện thực:
– Phác họa về tình cảnh thê thảm của con người trong nạn đói
- Cái đói đe dọa con người.
- Cái đói bóp méo cả nhân cách những con người .
- Cái đói khiến cho hạnh phúc thật là mỏng manh và tội nghiệp.
– Tố cáo mạnh mẽ về tội ác của bọn thực dân Pháp và phát xít Nhật đã gây ra nạn đói khủng khiếp.
→ Giá trị nhân đạo
– Tình người rất cao đẹp thể hiện qua những cách đối xử với nhau của các nhân vật.
- Tràng rất là trân trọng người “vợ nhặt” của mình.
- Thiên chức và bổn phận làm vợ, làm dâu được đánh thức nơi người “vợ nhặt”
- Tình yêu thương con của cụ Tứ.
– Con người luôn hướng đến sự sống và luôn luôn hi vọng và tin tưởng ở tương lai:
- Tràng lấy vợ về là để duy trì sự sống.
- Bà cụ Tứ là một người già lại luôn miệng nói về ngày mai với những dự định thiết thực tạo lên niềm tin cho con dâu vào một cuộc sống tốt đẹp hơn .
Đoạn kết tác phẩm với những hình ảnh lá cờ đỏ và đoàn người phá kho thóc Nhật.
c) Kết bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
– Khẳng định tài năng của tác giả qua việc xây dựng tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn.
– Khẳng định giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt.
2. Văn mẫu phân tích tình huống truyện Vợ nhặt
Bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt (mẫu 1)
Bài phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt hay để các bạn tham khảo:
Truyện ngắn Vợ nhặt của tác giả Kim Lân viết về cuộc sống ngột ngạt và bức bối của dân ta năm 1945 và với nạn đói khủng khiếp làm chết hơn hai triệu người từ miền Bắc tới miền Trung. Nhà văn viết truyện này ngay trong nạn đói và với cái tên ban đầu là Xóm ngụ cư, nhưng thất lạc bản thảo nên đến sau hòa bình năm 1954 ông mới viết lại và cho ra mắt với tựa đề bài là Vợ nhặt. Hơn nửa thế kỷ đã trôi qua nhưng tác phẩm Vợ Nhặt vẫn xứng đáng là một trong những câu truyện ngắn xuất sắc nhất của văn xuôi hiện đại Việt Nam.
Những yếu tố tạo nên sức hấp dẫn của tác phẩm chính là ở chỗ tác giả Kim Lân đã sáng tạo ra một tình huống truyện đặc biệt và một tình huống éo le, trớ trêu chứa đựng đầy những kịch tính nhưng tại chứa đựng ý nghĩa nhân văn và vô cùng sâu sắc. Cốt truyện đơn giản: Một anh chàng ngụ cư nghèo khổ và độc thân, đứng tuổi và xấu xí làm cái nghề kéo xe bò thuê, chỉ với vài câu bông đùa và mấy bát bánh đúc mà đã nhặt được cô vợ , một cô gái đang dở sống dở chết vì đói và họ thành vợ thành chồng giữa khung cảnh tối sầm lại vì đói khát. Đêm tân hôn của họ diễn ra âm thầm trong bóng tối âm u và lạnh lẽo, điểm những tiếng hờ hờ khóc tỉ tê của những nhà có người chết đói và theo gió vẳng lại. Bữa cơm cưới của họ chì có cháo loãng và rau chuối ,muối hột. Mẹ chồng đãi con trai và con dâu món chè nấu bằng cám và bữa cơm diễn ra trong những tiếng trống thúc thuế dồn dập. Câu chuyện của ba mẹ con xoay quanh về câu chuyện Việt Minh hô hào dân chúng không đóng thuế và để tổ chức phá kho thóc của Nhật chia cho những người nghèo.
Cảnh Tràng đưa cô vợ nhặt về nhà là một trong những tình huống lạ lùng và tạo ra sự ngạc nhiên và thú vị cho cả cái xóm ngụ cư đang hấp hối và lạ lùng ngay cả với mẹ con Tràng. Anh dẫn người về một cô đàn bà lạ mặt về nhà lúc trời nhập nhoạng tối. Hai người cùng nhau lủi thủi đi vào cái xóm ngụ cư heo hút và tồi tàn ở mé sông. Nhà cửa hai bên đường thì úp súp và tối om, không một ánh đèn và ánh lửa, chẳng khác gì những nấm mồ hoang và khung cảnh ngập tràn tử khí. Sự sống chỉ còn thoi thóp và bóng đen chết chóc đang bao phủ khắp nơi.
Tràng dẫn người đàn bà xa lạ q về để làm vợ và để tạo dựng gia đình, tiếp nối sự sống. Trên bờ vực thẳm của cái chết và họ tìm đến sự sống. Tràng vui sướng vì sự kiện to lớn này bất ngờ của đời anh: anh đã có vợ và anh đang dẫn vợ về nhà. Đói, chết tràn lan. Mình cũng đói và mẹ già cũng đói, thế nhưng lại lấy vợ vào lúc này. Quả là một chuyện lạ lùng và thú vị!
Trước hết là lạ lùng với những dân xóm ngụ cư. Cái cảnh Tràng đi trước với cái vẻ mặt phởn phở khác thường và người đàn bà đi sau cánh vài ba bước với cái dáng thèn thẹn hay đáo để làm cho mọi người tò mò kéo nhau ra xem. Đầu tiên là lũ trẻ. Đang ủ rũ vì đói rồi chúng bỗng nhao nhao nói cười và trêu ghẹo anh Tràng: Anh Tràng ơi, chông vợ hài! Dân xóm ngụ cư thấy ồn ào thì kéo nhau ra xem rồi thì thầm và bàn tán. Rồi họ hiểu ra và khuôn mặt họ bỗng lại rạng rỡ hẳn lên. Từ trong sâu thẳm tâm hồn họ vẫn le lói một niềm vui là họ thú vị nghĩ tới chuyện anh Tràng bỗng dưng lại có vợ và thực lòng muốn chia vui với anh. Cái xóm ngụ cư đang thoi thóp chờ cái chết này chợt bừng lên một thoáng sống và những vui đấy lại lo ngay đấy. Họ lo thay cho Tràng: Ôi Giời đất này còn rước cái của nợ này về. Biết có nuôi nổi nhau sống qua được những cái ngày này không? Ấy là họ lo cho mình sự sống đang phải đối mặt với cái chết và cứ hi vọng vượt lên cái chết.
Bà cụ Tứ mẹ Tràng đã ngạc nhiên khi nhìn thấy cô gái lạ ngồi ở giường con trai mình. Được gọi bằng u và bà càng chẳng hiểu ra làm sao. Cho tới đến lúc nghe Tràng bảo: Kìa nhà tôi nó chào u… thì bà mới vỡ lẽ: Bà lão cúi đầu nín lặng và bà lão hiểu rồi. Lòng người mẹ nghèo khổ ấy còn hiểu ra riết bao nhiêu cơ sự và vừa ai oán vừa xót thương cho số kiếp của đứa con mình… Thì ra là thằng con trai của mình đã kiếm được vợ và dẫn về đây. Tâm trạng bà cụ buồn tủi và mừng, lo lẫn lộn. Buồn tủi vì làm cha làm mẹ mà không tròn trách nhiệm đối với con cái và nghèo khổ đến nỗi không thể cưới được vợ cho con. Mừng vì tự nhiên con trai lại có được vợ và dù là vợ nhặt. Còn lo bởi bà cụ băn khoăn và biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Càng ngẫm nghĩ, bà cụ lại càng thương con trai và thương cô gái xa lạ kia vô hạn và trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai dòng nước mắt.
Đến ngay cả chính anh Tràng cũng ngạc nhiên không kém. Ngạc nhiên đến sửng sốt và không tin là sự thật: Nhìn thị ngồi ngay giữa nhà và đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư? Hà! Việc xảy ra thật hắn cũng không ngờ và hắn chỉ tầm phơ tầm phào đâu có hai bạn và ấy thế mà thành vợ thành chồng… Ngày hôm sau thức dậy và nhìn chị ta quét dọn sân vườn, Tràng vẫn chưa tin rằng là mình đã có vợ và chuyện xảy ra cứ như trong mơ và những người đàn bà bằng xương bằng thịt kia chính là vợ anh và dẫu chẳng phải cưới xin gì.
Tình huống mà nhà văn Kim Lân đặt ra trong truyện là một tình huống éo le và trớ trêu, không biết nên buồn hay nên vui. Bản thân Tràng lúc đầu thì mừng vì tự nhiên có được vợ và nhưng rồi anh chợn, nghĩ: Thóc gạo này đến cái thân mình cũng chả biết có nuôi nổi không và lại còn đèo bòng. Hàng xóm cũng lo thay cho anh và nhất là người mẹ lo và thương cho con trai mình. Nhà văn đặc tả đêm tân hôn của vợ chồng Tràng với những chi tiết thật ấn tượng và chứa đựng nhiều ý nghĩa sâu xa: Tràng chỉ dám thắp đèn có một lúc rồi tắt. Hai người nằm lặng lẽ bên nhau trong bóng tối hãi hùng và ghê rợn bởi tiếng hờ khóc tỉ tê văng vẳng từ những nhà có người chết đói.
Chút hạnh phúc nhỏ nhoi và mong manh của họ bị cái đói và cái chết bủa vây. Nhưng sự sống là bất diệt. Từ trong cái chết và sự sống vẫn sinh sôi và nảy nở. Bị thương cùng cực và dữ dội. Sự sống bất chấp cái chết và điều đó chứng tỏ ý chí con người và quy luật của cuộc đời mạnh mẽ biết chừng nào !
Đặt nhân vật vào những tình huống éo le như vậy và nhà văn đã làm nổi bật ý nghĩa nhân văn sâu xa của tác phẩm. Cho dù không trực tiếp nói tới thực dân Pháp và phát xít Nhật và chính quyền phong Kiến tay sai nhưng từ câu chuyện về người vợ nhặt đã toát lên lời tố cáo đanh thép về tội ác tày trời này của chúng đã gây ra nạn đói thảm khốc nhất, có một không hai trong lịch sử nước ta. Quan trọng hơn cả là truyện đã thể hiện thành công về vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu trong cái vẻ ngoài xác xơ và vì đói khát của những người nghèo khổ. Trong cái cuộc sống không đáng gọi là sống ấy và họ vẫn nhen nhóm niềm tin và hi vọng vào một sự đổi đời và vào tương lai tươi sáng. Đó chính là giá trị về nhân văn và làm nên sức sống lâu dài của tác phẩm.
Bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt (mẫu 2)
Bài phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:
Đối với nghệ thuật truyện ngắn và tạo ra được một tình huống độc đáo mới lạ để làm bật nổi vấn đề và bật nổi tâm trạng và tư tưởng, tính cách của các nhân vật và về chủ đề của tác phẩm là một trong những điều có ý nghĩa nhất và là then chốt. Một truyện ngắn đặc sắc là nhờ vào được tổ chức xung quanh một tình huống như thế ,và Vợ nhặt của tác giả Kim Lân là một trường hợp tiêu biểu.
Vợ nhặt đã tạo nên được một trong những tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn. Đó chính là tình huống nhân vật Tràng và một anh nhà nghèo xấu xí và dân ngụ cư (bị người làng khinh bỉ), giữa lúc đói khát lại lấy được một cô vợ. Đó chính là một điều lạ và lạ vì hai lý do. Người như Tràng mà lấy được vợ và thậm chí có vợ theo! Thời buổi đói khát này và là người như Tràng và nuôi thân chẳng xong mà dám lấy vợ!
Những điều tưởng không thể nào có được và lại đã xảy ra và đã trở thành hiện thực. Bởi vì vậy nếu không phải năm đói, người ta không đói quá thì sẽ không ai thèm lấy Tràng. Và đây là “vợ nhặt” và có cần choe cưới gì đâu. Năm đó thế nào cũng xong và có thế người như Tràng mới có được vợ.
Tình huống này đã dẫn đến sự ngạc nhiên của cả xóm ngụ cư và cả bà cụ Tứ (mẹ Tràng) và của chính Tràng nữa và như vậy là tình huống này đã làm cho câu chuyện có thể triển khai và phát triển dễ dàng nhất bằng các cảnh với các chi tiết rất hấp dẫn: Cảnh xóm ngụ cư xì xào và bàn tán khi Tràng dẫn một cô vợ về nhà.
Cảnh buổi tối và bà cụ Tứ gặp người con dâu được “nhặt về” trong sự sững sờ này đến sự ngạc nhiên khác và.. Chuyện có vợ bất ngờ với cả làng và chính Tràng nữa và khiến Tràng không thể nào tin nổi trong buổi tối dẫn vợ về nhà cho mẹ biết và ngay cả sáng hôm sau khi đã là vợ chồng của nhau (“Nhìn thị (vợ Tràng) ngồi ngay giữa nhà và ngày đến bây giờ hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế và ra hắn đã có vợ rồi đấy ư?”). Tình huống trên và đồng thời hết sức éo le. Đó chính là chuyện nên vui hay là nên buồn nên mừng hay nên lo?
Chính điều này đã lại thúc đẩy cho một câu chuyện tiếp tục phát triển để nhà văn có thể khắc họa tâm trạng của nhân vật phong phú và tính cách nhân vật rõ nét hơn. Trong cái tình huống hết sức éo le đó và ta thấy một sự xáo trộn buồn tủi và vui mừng và lo sợ ở trong tâm trạng của mọi người: Người trong xóm ngụ cư mừng cho anh ấy và cũng rất lo cho anh ta. Bà cụ Tứ mừng cho con nhưng vừa thường vừa túi và vừa lo cho con.
Chính Tràng cũng vừa vui lại vừa “trợn”: “thóc gạo này đến cái thân hắn cũng chưa biết có nuôi nổi không mà lại còn đèo bòng”. Tình huống trên đã dẫn đến cái hạnh phúc thật mong manh và tội nghiệp của đôi vợ chồng và bà mẹ nghèo khổ. Hạnh phúc của vợ chồng Tràng là niềm vui của bà cụ Tứ cứ phải diễn ra trong một không khí ảm đạm chết chóc và với những tiếng hờ khóc người chết đói vẳng đưa tới và (“Giữa sự im lặng của đôi vợ chồng mới và có tiếng ai hờ khóc ngoài xóm lọt vào tỉ tê lúc to lúc nhỏ”). Hạnh phúc của họ đã diễn ra trong âm hưởng của tiếng khóc thê thảm ấy của nạn đói năm 1945.
Và tiếp đó là bữa ăn đầu tiên đón tiếp nàng dâu mới thật tội nghiệp: ăn cháo cám. Ăn mà không dám nhìn vào mắt nhau… Tình huống đó đã tạo cảm hứng và tạo cảnh và tạo chi tiết để nhà văn có thể viết nên những trang thật cảm động về những câu chuyện “Vợ nhặt” rất hiện thực và cũng rất nhân đạo trong trận đói khủng khiếp năm 1945.
Những tình huống “Vợ nhặt” độc đáo và rất hấp dẫn là một sáng tạo nghệ thuật đặc sắc của nhà văn Kim Lân. Tình huống đó không chỉ là tạo điều kiện cho câu chuyện triển khai và phát triển dễ dàng và tốt đẹp, mà còn góp phần bộc lộ sâu sắc chủ đề truyện: niềm khát khao và tổ ấm gia đình là tình thương giữa những con người nghèo khổ ngay trong trận đói khủng khiếp nhất.
Bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt (mẫu 3)
Bài phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt của một bạn học chuyên Văn để các bạn tham khảo:
Nhà Thơ Kim Lân được mệnh danh là cha đẻ của đồng ruộng và là nhà văn một lòng đi về với đất với người, với những giá trị thuần hậu nguyên thủy và của nông thôn Việt Nam. Lần đầu tiên có một nhà văn xắn quần để lội xuống bùn để lắng nghe hơi thở nồng nàn của đất đai của cuộc sống và của con người để tái hiện mồn một trên mỗi trang viết. Nhà văn Kim Lân hấp dẫn người đọc bởi cốt truyện đơn giản và lối kể rất hấp dẫn và khả năng phân tích tâm lí nhân vật sắc sảo. Trong một số những tác phẩm của ông thì truyện ngắn Vợ nhặt được in trong tập ” Con chó xấu xí” xuất bản vào năm 1962 là tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của tác giả Kim Lân. Trong tác phẩm ông đã ghi lại sự thật rất mặn chát của cuộc đời người nông dân trong nạn đói 1945 và tất cả sự thật nghiệt ngã ấy được nhà văn thông qua tình huống truyện Vợ nhặt.
Xây dựng lên tình huống là vấn đề then chốt của truyện ngắn và là cánh cửa mở ra để người ta đọc đi vào khám phá giá trị của một tác phẩm văn chương. Nhà văn thường xây dựng lên hoàn cảnh điển hình để đặt nhân vật vào đó khám phá vẻ đẹp của tâm hồn tính cách nhân vật đồng thời tái hiện bức tranh đời sống xã hội. Nhà văn Kim Lân cũng thế, ông đã tái hiện không gian năm nạn đói 1945 làm phông nền để cho việc anh cu Tràng nhặt được vợ. Cái năm Ất Dậu ngày ấy đã trở thành nỗi kinh hoàng của lịch sử Việt Nam và là vết thương lòng không bao giờ mờ được trong trái tim mỗi người dân Việt Nam. Hơn hai triệu đồng bào ta bị chết đói là con số mà hàng trăm hàng nghìn năm sau mỗi lần nhắc tới con cháu ta không khỏi rùng mình và ghê sợ về cái thời mà trên trời từng đàn quạ đen rỉa xác người chết đói bay lên và gào lên từng hồi thê thiết.
Dưới đất bên những gốc cây đa gốc cây gạo xù xì bóng những người đói đi lại dật dờ như những bóng ma. Người Thái Bình và Nam Định đội chiếu lũ lượt bồng bế dắt díu nhau đi trông xanh xám dật dờ như những bóng ma. Không khí vẩn lên mùi ẩm mốc của những thứ rác rưởi và mùi gây của xác người và tất cả tạo nên một bầu không khí ảm đạm tang tóc và thê lương. Cái đói và cái chết len lỏi vào ngõ ngách, gõ cửa từng nhà và đụng chạm đến từng người, cõi âm hòa với cõi dương, cuộc sống mấp mé bên bờ vực của cái chết. Giữa bối cảnh tối sầm lại vì nạn đói khát ấy thì một việc hệ trọng nhất của một đời người lại diễn ra một cách nhanh chóng và vội vàng – đó chính là việc anh cu Tràng có vợ.
Tràng có vợ là một trong những truyện lạ bởi hắn vốn là một người xấu trai mà dân ngụ cư cho là ế vợ “hai con mắt nhỏ tí gà gà và đắm vào bóng chiều, hai quai hàm bạnh ra và cái mặt bặm lại lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú lại vừa dữ tợn. Cái đầu trọc nhẵn chúi về đằng trước và cái lưng dài rộng như là lưng gấu lại thêm tật vừa đi vừa ngẩng mặt lên trời cười hềnh hệch”. Nhìn Tràng chẳng khác gì sản phẩm mà tạo hóa chạm khắc vội vàng. Thật vậy,những lời văn của Kim Lân như thứ nước rửa ám ảnh làm nổi hình nổi sắc nhân vật trên từng câu chữ. Một người xấu như Tràng mà lại có vợ, thậm chí nhặt được vợ đó chẳng phải là một chuyện lạ hay sao.
Không chỉ xấu mà Tràng còn rơi vào kiếp nghèo và nghèo đến tận đáy cùng của xã hội. Hãy nhìn căn nhà mà hai mẹ con Tràng ở chẳng khác gì túp lều xiêu mưa ngã gió mọc trên những bụi cỏ dại ” lổn nhổn ” và thêm vào đó tài sản của Tràng còn là một đống quần áo rách vắt khươm mươi niên trong một góc nhà, là những hai cái ang nước để khô còn trơ trọi dưới gốc cây ổi và là đống rác mùn tung bành ngay giữa lối đi. Có thể nói cái nghèo đã kéo ghì cuộc sống của mẹ con Tràng xuống sát đất để rồi cái chết đang rình rập bủa vây. Tác giả Kim Lân đã chọn những chi tiết rất thật và rất đời thường, lựa chọn những ngôn ngữ mộc mạc giản dị và gần gũi để tái hiện bức tranh hiện thực đời sống xám ngắt trong năm nạn đói 1945. Đã nghèo mà Tràng lại còn mang thân phận của dân ngụ cư nên thật tội nghiệp vì bởi coi khinh miệt thị dân ngụ cư đã đi sâu vào tiềm thức đến mức đã trở thành lời truyền miệng:
Trai làng ở góa còn đông
Cớ sao em lại lấy chồng ngụ cư
Đặc biệt là ở việc Tràng có vợ chỉ với một câu nói bông bột vui đùa trong lần gò lưng kéo xe bò thóc và hắn nhìn thấy những cô gái ngồi vêu mặt ra ở dốc tỉnh và Tràng đoán họ ngồi đó để nhặt hạt rơi hạt vãi hay ai có việc gọi thì làm và họ chính là kiếp người trôi dạt bị cơn bão táp của đói khát đẩy xô. Trước cảnh đó Tràng cất câu hò cho đỡ nhọc chứ không có ý chòng ghẹo cô nào:
Muốn ăn cơm trắng mấy giò này
Lại đây mà đẩy xe bò với anh nì
Chẳng hiểu tại sao lúc đó chàng lại có thể nói ra những lời có cánh đến mức như vậy. Dẫu biết rằng là có khối đấy mà cơm trắng mấy giò thế mà Thi vẫn ton ton chạy lại đẩy xe bò cho Tràng. Hắn thích chí cười tít cả mắt bởi vì từ ngày cha sinh mẹ đẻ đến giờ chưa có ai cười với hắn tình tứ đến như thế. Câu hò cất lên giữa ngày đói và khát sẽ chẳng bao giờ lịm tắt mà luôn để lại dư vang và biết đâu một ngày nào đó nó trở thành chiếc phao cứu sinh và cứu vớt người chết đuối vì đói khát và đôi khi nó là cái cớ là nhịp cầu dẫn con người đến với nhau và quả thật lần thứ hai khi trả hàng xong Tràng ngồi uống nước ở cổng chợ tỉnh thì Thị ở đâu sầm sập chạy đến đứng sưng sỉa trước mặt Tràng và nói :” Điêu! người thế mà điêu”. Thoáng đầu Tràng chẳng hiểu cái gì nhưng trong phút chốc Tràng nhận ra Thị và Thị hôm nay rách quá, trên khuôn mặt lưỡi cày chỉ trở lại hai con mắt. Nghĩa là Thị đang mấp mé bên bờ vực để đợi cái chết và chỉ biết dõi theo câu hò xăm xăm đi tới tìm Tràng mà thôi và kiếp đời trôi dạt như Thị thì biết đâu là bến bờ neo đậu:” Tối đâu là nhà, ngã đâu là giường”. Thị đích thực đúng là người của cái thời:
Con đói lả trên lưng mẹ khóc
Mẹ đợ con đi nấu thóc cầm hơi
Kiếp người cơm vãi cơm rơi
Biết đâu nẻo đất phương trời mà đi
Nhìn Thị bỗng dương tình yêu thương đồng loại trong Tràng trỗi dậy và hắn sẵn sàng đãi Thị “thích ăn gì thì ăn”, nghệ thế hai con mắt trũng hoáy của Thị tức thời sáng lên và nghĩa là Thị đã tìm thấy một nguồn sống: ” ăn nhé”…”ăn thì ăn chứ sợ gì”. Thế là Thị cắm đầu ăn liền một chặp bốn bát bánh đúc và chẳng nói năng gì. Nhìn Thị lúc đó có vẻ như rất trơ trẽn và Thị đã chối bỏ liêm xỉ và đánh rơi lòng tự trọng cắm đầu mà ăn. Kẻ hời hợt thì nhìn Thị bằng cặp mắt khinh bỉ và người sâu sắc thì ngậm ngùi cái cảnh rưng rưng nước mắt mà cảm thông xót xa cho Thị. Cái gì đã làm cho Thị đánh rơi mất đi lòng tự trọng? Cái gì đã làm cho Thị trở nên trơ trẽn? Phải chăng đó là cái đói và cái chết? Vì sống nên Thị phải ăn bởi sống mới là nhân văn nhân bản.
Đã có biết bao triết lý ném ra giữa đời để bênh vực những người như Thị và ví như ngạn ngữ Hi Lạp cho rằng:” Có ai chết hai lần để học bài học kinh nghiệm về cái chết bao giờ đâu” hay Nguyễn Khải đã có những lúc khẳng định ” Muốn chết nhưng đời còn dài nên lại phải sống cho dù phải sống táo bạo và sống ghen tị với mọi người và hờn giận với chính bản thân của mình”. Thật vậy và hãy một lần ta đặt mình vào hoàn cảnh của Thị ta sẽ thấu hiểu được nỗi tủi hờn và nhục nhã trong Thị. Và như vậy Thị thật đáng thương và đáng chia sẻ hơn là đáng trách. Xong bữa tiệc bánh đúc Thị cầm cây đũa quệt ngang cái miệng và nói “hà, ngon”, “về chị ấy thấy hụt tiền thì bỏ bố”, Tràng nói:” làm đếch gì có vợ và nói đừa chứ có về với tớ thì khuôn hàng lên xe rồi mình cùng về”, Tràng cứ nghĩ mình nói đùa và ai ngờ Thị lại về thật. Thế là một đám cưới diễn ra.
Tràng có vợ thực sự là một chuyện éo le đám cưới của Tràng và Thị cứ ngỡ như chỉ có trong chuyện cổ tích và vậy mà nó lại là một đám cưới có thật ở xã hội Việt Nam khi chìm dưới ách thống trị của bọn thực dân phong kiến và đám cưới gì mà không một lễ nghi dạm hỏi và chẳng lẽ bốn bát bánh đúc là toàn bộ sính lễ ư? Đám cưới gì mà lại không một kẻ đón người đưa và thậm chí cuộc đón dâu từ chợ huyện về xóm ngụ cư chỉ có hai người. Cô dâu với chiếc nón rách nghiêng nghiêng để che nửa khuôn mặt và quần áo rách như tổ đỉa. Chú rể thị lại lúc nào cũng ngửa mặt lên trời cười hềnh hệch tự đắc với mình. Đám cưới đi trên nền tảng của một đám tang chung toàn dân tộc và tưởng rằng họ đang dắt díu nhau về cái cõi chết. Tràng thật liều lĩnh , cái liều của Tràng là ở thời buổi này nuôi thân mình còn chưa nổi lại còn đèo bòng. Thị cũng thật là liều lĩnh . Thị liều nhắm mắt đưa than và theo không một chàng trai xa lạ về làm vợ.
Biết đâu hai cái liều ấy hợp lại sẽ thành một tổ ấm.Về đến nhà và bước chân vào căn nhà rúm ró xiêu vẹo, quần áo và niêu bát vứt bừa bộn cả trên giường dưới đất, Thị “nén một tiếng thở dài”, “cái ngực gầy lép của cô Thị nhô lên”. Dường như trong hơi thở dài đó chứa đựng nỗi thất vọng bởi nhìn cảnh ngộ của gia đình Tràng thì liệu Tràng có phải là một cái bến vững chắc cho con thuyền đời thị neo đậu hay không? Mặc dù Tràng đon đả thanh minh: “không có người đàn bà nhà cửa thế đấy”, “ngồi đây…ngồi xuống đây, tự nhiên!” thế nhưng Thị thị chỉ dám ngồi “mớm” ở mép giường. Ai dám bảo Thị trơ trẽn nữa và ai dám bảo Thị đánh rơi mất lòng tự trọng nữa và mà lúc này con người thật của thị đã trỗi dậy trong sự tủi nhục ngậm ngùi chua chát.Thị ngồi mớm ở mép giường trông nó chông chênh như chính cuộc đời của Thị vậy.
Còn Tràng thì lại nhìn Thị ngồi ngay giữa nhà mà chợt nghĩ hóa ra đó mình đã có vợ rồi và chàng không hiểu vì tại sao Thị lại buồn như thế. Người đời thường nói: “Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà/ Trong ba việc ấy thật là khó khăn để ” ấy thế mà việc có vợ đối với Tràng dễ như trở bàn tay vậy và như nhặt rơm nhặt rác ở ngoài đường. Sinh ra cũng là kiếp người mà sao Thị lại tội nghiệp đến vậy và nhìn Thị mà nỗi buồn thêm nặng trĩu và tâm trạng của bà cụ Tứ thì chứa đầy những cảm xúc ngổn ngang và mâu thuẫn. Bà cụ vui vì cuối cùng đứa con của mình cũng có vợ nhưng lại tủi thân vì sự trớ trêu của số phận và bà mẹ nghèo nặng trĩu những nỗi lo âu cho tương lai của con mình :”liệu chúng nó có nuôi nổi nhau qua cơn đói khát này không nữa”.
Câu hỏi chất chứa nỗi hoang mang và ám ảnh kiếp bần hàn không lối thoát và cả sự rình rập trước ngõ của những cơn ác mộng về cái đói chưa bao giờ dữ dội đến thế”. Trong lòng bà, ta cảm thấy cả nỗi buồn của một người mẹ không được thấy con trong ngày vui và không có lấy một mâm cơm làm lễ gia tiên. Trong lời nghẹn ngào tâm sự của bà còn có cả sự xót xa và một chút ân hận vì đã không làm được đầy đủ bổn phận của người mẹ đối với con :”Năm nay đói to đấy và chúng mày lấy nhau lúc này u thương quá” . Cái chậc lưỡi mặc kệ số phận của Tràng và hành động “nén một tiếng thở dài” tủi thân của người đàn bà khi liếc nhìn gia cảnh của nhà chồng; sự nghẹn ngào và xót xa của bà cụ Tứ trước hạnh phúc của con trai mình… khiến người đọc không biết nên vui hay là nên buồn và không cảm nhận được đây là hạnh phúc hay bất hạnh và sự sống hay là cái chết.
Đặt nhân vật của mình vào tình huống bất ngờ và éo le như vậy, tác giả Kim Lân đã làm nổi bật được những ý nghĩa sâu sắc cho tác phẩm của mình. Với việc xây dựng những tình huống truyện độc đáo nhà văn đã thể hiện rõ chủ đề của tác phẩm đồng thời đã tố cáo hiện thực xã hội đã tước đoạt hết quyền sống và quyền hạnh phúc của con người.
Có thể nói là ấn tượng của người đọc với tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân chính là ở tình huống truyện đầy sức độc đáo và bất ngờ nhưng cũng không kém phần éo le của thiên truyện. Thành công đó khiến truyện ngắn của nhà văn Kim Lân sống được với thời gian và cái nạn đói năm 1945 với hơn hai triệu người bị chết đói ấy và rồi một lúc nào đó sẽ lùi vào dĩ vãng. Những câu chuỵên “nhặt vợ” của anh Tràng thì vẫn sống cùng tâm hồn và cùng những nỗi đau và niềm tin của người dân Việt Nam.
Bài phân tích tình huống truyện Vợ nhặt (mẫu 4)
Bài phân tích tình huống truyện trong Vợ nhặt của học sinh giỏi văn để các bạn tham khảo:
Vợ nhặt của nhà văn Kim Lân được khai thác từ những đề tài nạn đói năm 1945 những cái đọng lại sau cùng của người đọc về tác phẩm không phải là ám ảnh về cái chết và sự mất mát mà là ánh sáng ấm áp của tình người. Đứng trên ranh giới của sự sống và cái chết, con người vẫn dành cho nhau tình cảm chân thành và rất đẹp đẽ , đúng như Nguyễn Khải đã từng viết rằng “ sự sống nảy sinh từ trong cái chết và hạnh phúc hiện hình từ trong những gian khổ và hi sinh”. Xây dựng được tình huống truyện đặc sắc và tác giả Kim Lân trong Vợ nhặt không chỉ thu hút được sự quan tâm và kích thích sự tò mò để khám phá sự độc giả mà qua đó còn thể hiện được bao quan điểm nhân sinh sâu sắc.
Tình huống truyện được hiểu là những diễn biến và sự kiện đặc biệt và phức tạp. Tình huống truyện càng độc đáo thì những câu chuyện càng hấp dẫn. Trong truyện ngắn vợ nhặt của Kim Lân đã xây dựng được tình huống vừa lạ lùng lại vừa éo le, một trong những tình huống mang đến cho những người xung quanh câu chuyện bất ngờ và ngạc nhiên cùng bao cảm xúc phức tạp.
Tràng là chàng trai nghèo xấu xí và dáng người thô kệch với “hai mắt hí gà gà vào bóng chiều và bộ mặt thô kệch, lưng to bè như lưng gấu”. Tràng sinh sống cùng mẹ trong một ngôi nhà lụp xụp xóm ngụ cư. Có thể nói với những điều kiện của anh Tràng thì khó mà có thể lấy được vợ trong hoàn cảnh bình thường và càng bất khả thi hơn khi nạn đói xảy ra và thế nhưng trong sự ngạc nhiên của tất cả mọi người, trong đó có cả người trong cuộc là Tràng, Tràng đã có vợ và nói đúng hơn là “nhặt” được vợ trong lúc nạn đói diễn ra khủng khiếp nhất.
Phân tích tình huống truyện Vợ nhặt của tác giả Kim Lân .Tình huống nhặt được vợ là của anh Tràng là tình huống lạ lùng nhưng không kém phần éo le và trái ngang, khi sự việc diễn ra người dân xóm ngụ cư không biết nên mừng cho anh Tràng hay buồn cho anh Tràng vì sự kiện ý nghĩa nhất của đời người lại diễn ra trong khung cảnh đói khát và liệu hạnh phúc ấy có được lâu bền hay không. Ngay bản thân bà cụ Tứ khi biết con trai mình có vợ cũng trải qua những cảm xúc vô cùng phức tạp và từ ngạc nhiên lo lắng, vui mừng cho hạnh phúc của con và buồn tủi vì làm mẹ mà không lo được cho con.
Cảnh đám cưới của Tràng và Thị vợ nhặt cũng diễn ra thật lạ lùng và sự kiện hạnh phúc có ý nghĩa thiêng liêng nhất của đời người nhưng lại được diễn ra ở trong không khí ngột ngạt và u tối bởi ám ảnh đói khát, khi sự sống và cái chết chỉ cách biệt bởi ranh giới vô cùng mỏng manh ấy . Tình huống để Tràng và người vợ nhặt quen biết rồi đi đến quyết định gắn bó cả đời với nhau thì cũng chỉ là những câu nói đùa vu vơ và vài bát bánh đúc. Hoàn cảnh gặp mặt có phần hài hước và lạ lùng ấy lại đã là nút thắt quan trọng gắn kết giữa hai con người và từ những người xa lạ đó họ đã gắn kết với nhau bởi mối quan hệ đặc biệt. Lấy vợ khi nạn đói hoành hành tủy có thiếu thốn về vật chất nhưng cả Tràng và Thị đều có chung khao khát hạnh phúc và có niềm tin vào cuộc sống hạnh phúc trong tương lai.
Trong tình huống độc đáo và ấn tượng ấy người đọc còn ấn tượng bởi tâm trạng của những người dân xóm ngụ cư và của chính bản thân Tràng. Những người dân xóm ngụ cư đã quen nhìn Tràng là một chàng trai xấu xí với nụ cười hềnh hệch và chàng trai nghèo mà xấu xí ấy ngỡ như không bao giờ lấy được vợ lại có vợ trong tình huống không ai có thể ngờ đến nhất. Nhìn người đàn bà e thẹn và rón rén đi sau Tràng mọi người đều vô cùng ngạc nhiên “đứng cả trong ngưỡng cửa nhìn ra bàn tán”. Chính sự kiện lạ lùng ấy đã mang đến một không khí tươi mát và lạ lùng vào không khí u ám vì đói khát ấy làm cho cuộc sống của những người dân nghèo đó có phần đổi khác so với thường ngày.
Tuy nhiên với những người dân xóm ngụ cư cũng tỏ thái độ lo lắng cho tương lai của Tràng và người vợ nhặt “ giời đất này còn rước cái của nợ về ….qua được cái thì này không?” Tràng là người trong cuộc nhưng cũng không khỏi ngạc nhiên vì tình huống “nhặt vợ” đầy lạ lùng ấy của mình. Khi người vợ nhặt về nhà và ngồi ở đầu giường thì Tràng vẫn ngỡ như đang trong cơn mơ “ bây giờ hắn đá có vợ rồi đó ư?” Chi tiết này thể hiện cái éo le của hoàn cảnh và anh Tràng là người dân nghèo khổ nên ngay cả khi hạnh phúc đến vẫn không dám tin vào thực tại.
Bà cụ Tứ nhìn người đàn bà lạ ngồi trên giường lại chào mình bằng “u” bà đã rất bất ngờ và hấp hãy đôi mắt nhìn cho kĩ, ngạc nhiên không hiểu chuyện gì đã xảy ra. Nạn đói đã cướp đi sự nhạy cảm và tinh tế của người mẹ khi có con trong độ tuổi lập gia đình.
Như vậy, thông qua tình huống nhặt vợ đầy đặc biệt, tác giả Kim Lân đã tái hiện được không khí đói khát và chết chóc của nạn đói nhưng từ cái nền đói khát đó tác giả đã làm nổi bật lên ánh sáng của tình người và làm bộc lộ những phẩm chất tốt đẹp nhất ở những người dân nghèo khổ.
Tham khảo thêm: