Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

0

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt trong bài viết sau đây bao gồm mẫu dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ cùng với các bài văn mẫu phân tích bà cụ Tứ, phân tích tâm trạng bà cụ Tứ, đã phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong tác phẩm Vợ nhặt sẽ là tài liệu tham khảo rất bổ ích giúp các em học sinh nắm được những cách làm bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ đúng trọng tâm và cũng lột tả được vai trò của nhân vật cụ Tứ trong tác phẩm.

Hình tượng nhân vật bà cụ Tứ trong câu truyện ngắn Vợ Nhặt của nhà văn Kim Lân tuy chỉ xuất hiện trong nửa cuối của câu chuyện nhưng đã lại để lại những ấn tượng rất sâu sắc trong lòng người đọc về hình ảnh một người mẹ nghèo, nhân từ và cực kì yêu thương con cái. Diễn biến tâm trạng nhân vật bà cụ Tứ ở buổi sáng ngày hôm sau cũng như trong một bữa cơm ngày đói đã được tác giả khắc họa thành công giúp cho người đọc cũng cảm nhận được về nhân vật bà cụ Tứ hiền lành, chất phác, vị tha, nhân hậu, và thương yêu con. Dưới đây là các bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ hay và rất chi tiết sẽ giúp các bạn học sinh có thêm ý tưởng khi làm bài phân tích bà cụ Tứ sau khi học xong  tác phẩm Vợ nhặt.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

a) Mở bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Vợ nhặt chính là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân, viết về cuộc sống ngột ngạt của nhân dân ta mà tiêu biểu là gia đình của bà cụ Tứ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945. Ngòi bút nhân đạo của Kim Lân đã vừa thể hiện ở sự phát hiện khẳng định vẻ đẹp tinh thần ẩn giấu sau những cái bề ngoài xác xơ vì đói khổ của nhân vật.

Trong ba nhân vật của truyện (bà cụ Tứ, Tràng, người đàn bà vợ Tràng), cụ Tứ, mẹ Tràng, là nhân vật có tâm trạng phức tạp mà có lòng nhân hậu vô cùng di thể hiện nổi bật nội dung nhân đạo sâu sắc, đã cảm động trong tác phẩm. Ngòi bút tài hoa của Kim Lân cũng đã diễn tả rất thành công trạng thái tâm lí đó

b) Thân bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

* Sự ngạc nhiên đến sững sờ

Tình huống rất đặc biệt làm cho bà cụ Tứ ngạc nhiên, ấy chính là việc con trai mình lấy vợ. Bà cụ ngạc nhiên vì con mình nghèo, xấu xí, và dân ngụ cư lại đang thời buổi đói khát, nuôi thân chẳng xong. Tràng còn dám lấy vợ, rước thêm một miệng ăn. Khi bà cụ đi làm về muộn, đã thấy người đàn bà ngồi ở đầu giường con mình rất ngạc nhiên, và càng ngạc nhiên hơn khi được người đàn bà chào bằng u và cũng được Tràng giới thiệu: “Kìa nhà tôi nó chào u”..” Nhà tôi nó mới về làm bạn với cả tôi đấy u ạ”. Bà ngạc nhiên đến mức không còn tin vào mắt và tai mình : “Bà lão hấp háy cặp mắt cho đỡ nhoèn cũng vì tự dưng bà lão thấy mắt mình nhòe thì phải. Bà lão đã nhìn kĩ người đàn bà lẫn nữa, còn vẫn chưa nhận ra người nào. Bà lão quay sang nhìn con và tỏ ý không hiểu”.

* Vừa mừng và vừa tủi

– Khi đã vỡ lẽ, cũng đã hiểu ra con mình “nhặt” được vợ, bà “cúi đầu nín lặng”. Bà đã liên tưởng đến bao cơ sự “ai oán” “xót thương” cho số kiếp của chính đứa con mình. Bà liên tưởng đến người chồng quá cố, cùng đến đứa con gái đã qua đời, lòng bà trĩu nặng tủi buồn và xót xa.

– Bà cụ Tứ mừng cho con từ nay đã yên bề gia thất, tủi thân làm mẹ không lo nổi vợ cho con. Giờ đây giữa lúc người đã chết đói “như ngả rạ” lại có người theo con trai bà về làm vợ. Cái tủi, cái buồn của người mẹ cũng bị dồn vào cảnh nghèo túng quẫn. Biết lấy gì để cúng tổ tiên, cố đế trình làng khi con đã có vợ. Bà cụ Tứ khóc vì mừng con có vợ, khóc cũng vì thương con dâu không biết làm sao vượt qua nỗi khó cực  này.

“Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ rủ xuống hai dòng nước mắt”. “Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá đi mất!…” “ừ thôi thì các con đã phải duyên phải kiếp với nhau, u cũng mừng trong lòng…”. “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống cho đỡ mỏi chân”. Bao nhiêu tình yêu thương chân thành tha thiết của một người mẹ thể hiện trong những lời giản dị mộc mạc ấy.

– Bà cụ xót xa thương dâu, thương con, và tủi phận mình: “bà cụ nghẹn lời không nói được nữa, nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Bao nhiêu lo lắng của sự ngổn ngang trong lòng.

* Nỗi lo

Bà cụ Tứ lo lắng thực sự cho con trai, con dâu, và lo cho cái gia đình nghèo túng của bà giữa lúc đói kém này liệu có nuôi nổi nhau không? Tương lai rồi sẽ ra sao. Bà chấp nhận cái “hạnh phúc” éo le của gia đình và ngẫm cái phận nghèo bà tự nhủ: “Có gặp bước khó khăn, đói khổ này người ta mới nghĩ lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..”. Bà cũng chỉ biết khuyên con, khuyên dâu thương yêu nhau, ăn ở hòa thuận với nhau để cùng đi vượt qua cơn khốn khó. Đó là nỗi lo, đó là nỗi thương của người mẹ từng trải, hiểu đời có những tấm lòng sâu thẳm đối với mình. Trong sự lo lắng tủi hờn vẫn nhen nhóm lên một niềm tin.

* Niềm tin

– Trong cái mừng, cái tủi, cái lo, người đọc vẫn thấy được niềm vui và hạnh phúc của cụ. Một niềm vui tội nghiệp không sao cất cánh lên được, mà cứ bị cái buồn, cái lo níu kéo xuống. Nhưng bà cụ Tứ vẫn cố vui và gắng làm cho con, cho dâu vui.

  • Vui trong ý nghĩ tốt đẹp về cả tương lai: “Rồi ra may mà ông giời cho khá…” ai giàu ba họ ai khó ba đời. Có ra thì con cái chúng mày về sau rồi bà cụ “nói toàn: chuyện vui, toàn những chuyện sung sướng sau này”.
  • Vui trong công việc sửa sang vườn tược, nhà cửa cùng đó bà cụ giẫy cỏ cho sạch vườn. “Cái mặt bủng beo u ám của bà cũng rạng rỡ hẳn lên. Bà lão xăm xăm thu dọn, và quét tước nhà cửa”.
  • Vui trong bữa cơm sáng, chính bữa cơm đầu liên có con dâu đó là một bữa “tiệc với món cháo loãng và cái món “chè khoán” đắng chát – một bữa ăn ngày đói rất thảm hại nhưng bà cụ vẫn cố tạo ra niềm vui để động viên an ủi con trai, con dâu.

– Mặc dù cuộc sống khắc nghiệt đến tàn bạo và cũng đã đầy đọa lên mẹ con bà. Bà vẫn cố tạo không khí hòa thuận thật ấm cúng trong gia đình và kể chuyện làm ăn, nuôi gà tươi cười đon đả múc cho đứa con dâu những bát cháo cám.

Tuy nhiên cái vui ấy, cho dù là rất nhỏ bé mà vẫn mong manh, vẫn chìm đi trong cái tăm tối hiện tại là: Tiếng khóc, mùi đốt đống rấm ở những nhà có người chết đói nơi Bà cụ nghĩ đến ông lão, và đến đứa con út, đến cuộc đời cực khổ dài dặc dặc của mình, cùng đến cái “đói to” trước mắt. Bà cụ phấp phỏng nghĩ về con trai và về con dâu.

Nhân vật bà cụ Tứ mang nét đạo lí của truyền thống:

Trong cái thân hình khẳng khiu, và tàn tạ, với “cái mặt bủng beo, u tối” ‘”bà vẫn nung nấu một ý chí sống thật mãnh liệt. Bà là hiện thân của những người mẹ nghèo khổ mà từng trải, và hiểu biết: hết lòng thương yêu con, yêu thương những cảnh đời tội nghiệp, oái oăm nơi Bà nung nấu một khái vọng về cuộc sống gia đình hạnh phúc.

c) Kết bài phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Qua nhân vật bà cụ Tứ, cùng với những diễn biến tâm trạng phức tạp – dưới ngòi bút nhân đạo của Kim Lân – với nội dung nhân đạo sâu sắc, cảm động của “Vợ nhặt” đã động chạm đến nơi sâu thẳm thẳm nhất của lòng người, bắt độc giả phải khóc, phải cười, và phải sống cùng nhân vật của mình.

2. Văn mẫu phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt (mẫu 1)

Bài phân tích bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt hay nhất để các bạn tham khảo:

Người mẹ Việt Nam luôn luôn là một nguồn cảm hứng sáng tạo của văn chương. Không một thể loại nào là không có những các tác phẩm viết về mẹ. Trong các tác phẩm của tác giả của Kim Lân, người đọc chắc có lẽ không thể không bị ấn tượng bởi chính nhân vật bà cụ Tứ. Bà là một người mẹ nghèo có tấm lòng nhân hậu, và giàu tình yêu thương con người và có niềm tin vào cả tương lai.

Bà cụ Tứ chính là mẹ của anh cu Tràng. Trong tác phẩm, bà cụ xuất hiện trước người đọc trong bóng hoàng hôn tê tái, là người mẹ nghèo khổ “húng hắng ho” chẳng khác nào một cái bóng đi vào đầu ngõ. Trước mái tranh đứng rúm ró trên mảnh vườn đã mọc lổn nhổn những búi cỏ dại. Nhà văn đặt nhân vật vào hoàn cảnh cũng bất ngờ đó là việc đứa con trai đưa một người đàn bà về nhà làm vợ vào giữa cái ngày đói khủng khiếp và cái chết đang rình rập gõ cửa từng nhà. Viết về bà cụ Tứ nhà văn đã đi sâu vào phân tích tâm lý và tấm lòng nhân ái đáng quý đáng trọng của bà đối với các con.

Cũng như mọi người trong xóm nhỏ ngụ cư, lúc đầu bà rất ngạc nhiên và không thể hiểu nổi điều gì xảy ra. Thấy Tràng ra đón từ ngoài ngõ lại reo lên như đứa trẻ vồn vã khác thường. Tâm trạng bà cụ Tứ đã trở nên phấp phỏng, có cái gì đấy bất thường đang chờ đợi bà. Đến giữa sân và bà lão đứng sững lại, càng ngạc nhiên hơn. Kim Lân đã chọn một ngôn ngữ độc thoại nội tâm để diễn tả tâm trạng bà cụ là: “Quái sao lại có người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường như con trai mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà. Ai thế nhỉ?” Cho đến khi nghe Tràng phân trần cắt nghĩa, nơi bà cụ mới hiểu. Lòng bà ngổn ngang những lo âu, tủi cực, và xót thương lẫn vui mừng. “Bà lão cúi đầu nín lặng” ở Trong lòng bà đầy những ám ảnh của một dĩ vãng nặng trĩu những đắng cay đến Bà nghĩ đến ông lão, đến đứa con Út, đến cuộc đời cơ cực dài dằng dặc của mình mà đã thương, mà tủi cực xót xa: “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho các con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi những mong cho sinh con đẻ cái nở mày nở mặt sau này. Còn mình thì…” Trong kẽ mắt kèm nhèm của bà rỉ xuống hai hàng nước mắt đã nạn đói đang đe dọa, con có vợ bà lo lắng thự

Từ xót xa, mặc cảm, và lo lắng bà nghĩ tới cái may của gia đình. Bà cũng xót thương người đàn bà lạ. Lòng người mẹ nghèo và nhân hậu thấu hiểu cảnh ngộ người con gái xa lạ bỗng trở thành con dâu của chính mình. “Người ta có gặp bước khó khăn, đói khổ này, và người ta mới lấy đến con mình. Mà con mình mới có vợ được..” Nghĩ thế bà vui trong lòng, ở cử chỉ của bà dịu dàng âu yếm. Bà gọi người đàn bà xa lạ là chính “con” xưng hô “u” một cách chân tình: “Thôi thì các con phải duyên kiếp với nhau u cũng mừng lòng”. Với bổn phận làm mẹ, bà cũng ao ước có được “dăm ba mâm” trước cúng tổ tiên sau mời làng xóm. Có thể nói rằng bà là người suy nghĩ trước sau song cái khó bó cái khôn, và ao ước giản dị ấy không thể thực hiện vì quá nghèo.

Thương con, bà thương dâu nơi Bà dặn dò nàng dâu bằng những lời động viên an ủi “Nhà ta thì nghèo con ạ. Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau mà làm ăn cho cẩn thận. Rồi may ra ông trời cho khá cũng Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ ai khó ba đời? Có ra rồi con cái chúng mày về sau”. Bà lại động viên an và ủi ” cốt làm sao chúng mày hòa thuận là u mừng rồi. Chúng mày lấy nhau cái đến lúc này u thương quá”.

Sáng hôm sau, con trai đã có vợ cả gia đình bà dường như đã thay đổi. Sáng hôm sau bà cùng con dâu dậy sớm thu dọn, và quét tước nhà cửa.” Bà mẹ Tràng cũng nhẹ nhõm, tươi tỉnh khác ngày thường, với  cái mặt bủng beo u ám của bà rạng rỡ hẳn lên”. Bữa cơm đãi nàng dâu thật thảm hại cùng  “Giữa cái mẹt rách có độc một lùm rau chuối thái rối, và một đĩa muối ăn với cháo”. Bà đãi nàng dâu i món “chè khoán” cháo cám. Những bà toàn nói chuyện vui, chuyện sung sướng sau này, bà dặn con trai cùng Mấy hôm nữa mua ít nứa về ngăn cho khỏi trống, có tiền nuôi mấy con gà mà chẳng mấy chốc có cả đàn gà. Bà đem lại cho cá con niềm tin cho cuộc sống mặc dù tiếng trống thúc thuế vẫn dồn dập, với tiếng quạ kêu từng hồi thê thiết. Không khí ảm đạm và vẫn bao trùm cuộc sống. Có thể nói trong bức tranh xã hội sáng hôm ấy, mà bà cụ Tứ là một điểm sáng về đạo lý làm người. Người mẹ không ao ước cho chính mình mà luôn sống vì con, cho con, cùng cho lớp con cháu mai sau.

Nhân vật bà cụ Tứ cũng đã tưởng như không thể có được nhất là trong hoàn cảnh gia đình bà, sự tăm tối của xã hội cùng ngọn lửa tình mẫu tử ấy cũng đã đủ nhóm lên giữ niềm tin hy vọng vào tương lai tươi sáng. Nét đẹp và nhân hậu vốn có trong bà cũng được tác giả diễn tả tinh tế qua cách sử dụng ngôn ngữ chọn lọc trong diễn tả tâm lí nhân vật, đã góp phần khắc họa vẻ đẹp tâm hồn của người mẹ nghèo Việt Nam.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt (mẫu 2)

Bài phân tích bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Vợ nhặt là một trong những tác phẩm hay nhất của văn học Việt Nam với đề tài cuộc sống người lao động trước Cách mạng. Xuất hiện trong truyện chính là ba nhân vật với những cơ cực, tủi hờn khác nhau, nhưng có lẽ đã đáng thương hơn cả vẫn là bà cụ Tứ. Trong truyện, nhà văn Kim Lân đã dừng lại để miêu tả khá sâu sắc diễn biến tâm trạng nhân vật này khi bất ngờ đón nhận được tin vui của cậu con trai: Thấy mẹ, Tràng reo lên như một đứa trẻ đã có qua được cơn đói khát này không!

Nếu được đọc Ngô Tất Tố, Nam Cao, thì chúng ta sẽ ít nhiều thấm thía cuộc sống cơ cực của những người dân lao động. Bần cùng và cũng bị bức bách đến mức tha hoá về nhân phẩm cũng là bi kịch lớn nhất mà chính họ phải chịu đựng. Nhưng cũng có những con người trong cơ nhục cũng vẫn bản lĩnh hay nói chính xác hơn là liều lĩnh chấp nhận thêm những khốn khổ, và vì một lẽ rất đơn giản: tình yêu, tình người. Đó là ai? Là chị Dậu, là mẹ còn anh cu Tràng.

Nếu như người dân Nhật sẽ không bao giờ cho phép mình quên sự thảm khốc khi Mỹ ném hai quả bom nguyên tử xuống và Nagasaki thì người Việt Nam lại không thể quên năm 1945 bởi những nạn đói chưa từng có trong lịch sử dân tộc. Cho đến giờ, người ta vẫn còn nhắc về nạn đói năm đó như nỗi kinh hoàng nhất. Trong Vợ nhặt, cái đói, và cái chết xuất hiện như một nhân vật có mặt khắp nơi. Người sống xanh xám như những bóng ma và người chết cũng như ngả rạ. Cõi sống lại như cõi chết, lúc nào cũng vẩn lên mùi ẩm thối của rác rưởi và mùi gây của chính xác người. Cố âm thanh đấy, nhưng cũng không còn là tiếng cười đùa ríu ran của bầy trẻ mà là tiếng quạ cứ gào to lên từng hồi thê thiết nghe thảm não. Ấy vậy mà khi tất cả mọi người đang quay quắt trong cái đói, cũng đang từng giờ cưỡng lại thần Chết thì anh cu Tràng lại làm một việc động trời đó là lấy vợ. Nhưng mọi sự đều có những nguồn cơn của nó. Hàng xóm láng giềng không hiểu có thể cho những anh cu Tràng gàn dở, chỉ có bà cụ Tứ – người dứt ruột đẻ ra anh, cũng là người mà cuộc đời đã trải qua bao cay đắng là thấm thía hết cơ sự.

Tậu trâu, cưới vợ, làm nhà là những việc trọng đại của chính  mỗi con người, cần có sự tham mưu của cha mẹ, đã của bề trên. Thế nhưng sự kiện Tràng lấy vợ lại được thông báo một cách đột ngột, và khiến bà cụ Tứ ngạc nhiên khôn tả. Ban đầu chỉ là sự thắc mắc khi cho rằng thằng con trai sốt sắng săn đón khác mọi ngày: Bà cụ Tứ nhấp nháy hai con mắt nhìn Tràng, cũng chậm chạp hỏi: Có việc gì thế vậy? Khi Tràng vẫn thong thả và chưa trình bày câu chuyện, bà cụ phấp phỏng bước theo con vào nhà. Kim Lân cũng đã thật sự rất tinh tế khi dùng hai chữ phấp phỏng để diễn tả sự lo lắng và nhẫn nại cũng chờ đợi của bà lão. Hành động đứng sững lại đưa nhân vật tới những đỉnh điểm của sự ngạc nhiên. Ngòi bút nhà văn vẫn không đứng ngoài quan sát mà đã nhập hẳn vào tâm trạng nhân vật, thấu suốt nỗi băn khoăn đang nảy theo cả những câu hỏi trong đầu bà lão: Quái, sao lại có một người đàn bà nào ở trong ấy nhỉ? Người đàn bà nào lại đứng ngay đầu giường thằng con mình thế kia? Sao lại chào mình bằng u? Không phải con cái Đục mà là Ai thế nhỉ? Bốn câu hỏi âm thầm liên tiếp bật lên trong những suy nghĩ của bà cụ Tứ. Chính bà cụ không trả lời được nhưng cũng không còn ai trả lời hộ bà. Mọi thắc mắc cũng chỉ xoay quanh sự xuất hiện của người đàn bà trong nhà và Không ngạc nhiên sao được khi ngôi nhà vốn dĩ chỉ có hai mẹ con nay lại có người thứ ba. Không ngạc nhiên sao được khi đã có giả thuyết con cái Đục – đứa con gái duy nhất đã không còn nữa? Thế mà vẫn có người gọi được bà cụ bằng u. Sự điềm tĩnh vốn có ở người già cũng đã giúp bà cụ Tứ không phát hoảng lên. Nhưng đáng thương hơn bà cụ lại đã tưởng mình nhầm lẫn: Bà cụ hấp háy cặp mắt cho đỡ cay và Rốt cuộc, nỗi băn khoăn của bà cụ Tứ vẫn không chỉnh được giải bày: Bà lão quay lại nhìn con tỏ ý không hiểu và Điều này để lý giải bởi trước sự việc của Tràng, bà cụ Tứ hoàn toàn bị động với Mọi việc đang đến với bà là sự đã rồi mà bà là người không hay biết được điều gì cả.

Khi Tràng vẫn cố tình trì hoãn nơi bí mật của mình, mời mẹ vào nhà ngồi chình chẽn, bà cụ lập cập bước vào nhà và đó là sự run rẩy của tuổi già hay là sự thấp thỏm, lo sợ phỏng đoán những điều bất trắc đã có thể xảy đến? Với người mẹ nghèo khổ này, còn có điều gì khủng khiếp nơi hơn sẽ đến nữa đây? Hai chữ lập cập của Kim Lân đã làm dậy lên trong lòng người đọc sự thương cảm sâu sắc. Biết trước những sự việc rồi nhưng độc giả vẫn hồi hộp chờ đợi phản ứng của bà cụ, vẫn nín thở xem bà cụ sẽ nói gì và làm gì?

Nhân vật của chúng ta vẫn không vỡ lẽ ra mọi chuyện có khi cô dâu mới cất tiếng chào lần thứ hai. Và dường như sốt ruột trước sự chậm hiểu của bà cụ, với nhà văn còn để cho Tràng chú thích là: Kìa nhà tôi nó chào u. Vậy mà bà cụ Tứ vẫn không thể hiểu được những sự thể câu chuyện. Làm sao bà cụ hiểu được khi trong thâm tâm, chính là bà cùng không tin con trai mình có thể lấy vợ. Anh cu Tràng vừa nghèo, vừa xấu, vừa cục mịch, và làm sao lấy nổi vợ? Với lại trong các giai đoạn này, có ai còn nghĩ đến chuyện cưới xin được? Nỗi băn khoăn của bà cụ chỉ có hết khi Tràng dõng dạc vắn tắt trình bày cơ sự và nhà tôi nó mới về làm bạn với tôi đấy u ạ! Chúng tôi phải duyên phải kiếp với nhau. Chẳng qua nó cũng là cả cái số cả. Và thế là bà lão cúi đầu nín lặng mà không phải là im lặng mà là nín lặng – tức là im lặng, nín nhịn vì cũng không thể nói được điều gì. Bà cụ Tứ đã hiểu hết mọi chuyện. Kim Lân cũng tiếp tục đồng cảm với những suy tư của bà để thấu hiểu hơn bao giờ hết những tủi hờn, và xót xa trong lòng bà cụ: Lòng người mẹ nghèo khổ ấy đã còn hiểu ra bao nhiêu cơ sự, vừa ai oán vừa xót thương cho đến số kiếp đứa con mình. Ai oán vì sao? Xót thương vì sao? Bao cơ sự ấy là gì? Bà cũng thấm thía lắm chứ. Những thổn thức trong lòng bà cụ chỉ Kim Lân mới hiểu và cảm thông và giải tỏa cho bạn đọc hiểu được. Thì ra suy nghĩ của bà cụ già không hề giản dị như chúng ta  đã nghĩ. Cái nghèo đói đã không làm bà cụ đi dãi chấp nhận cuộc sống buông tuồng. Bà cụ đang đau nỗi đau của người mẹ đã không thể lo nổi cho hạnh phúc của con mình.  Với lời văn: Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là lúc trong nhà ăn nên làm nổi, như những mong sinh con đẻ cái mở mặt sau này. Còn mình thì là lời tự trách, là tiếng khóc nức nở, và nghẹn ngào của người mẹ nghèo khổ. Tuổi già hạt lệ như sương, cũng nhưng trong kẽ mắt kèm nhèm của bà cụ Tứ vẫn rỉ xuống hai dòng nước mắt. Đó là những giọt nước mắt của sự tủi phận cùng cực. Đó là những giọt nước mắt khóc cho chính những sự khốn khó của mình. Nhưng đó cùng là những giọt nước mắt của lòng tự trọng, cùng những giọt nước mắt giữ cho nhân cách của con người không sa xuống nơi bờ vực của sự tha hoá. Người mẹ nghèo cũng chỉ còn những giọt nước mắt ấy đã làm chứng cho tình yêu tha thiết đối với các con.

Thương đến cháy lòng, và khổ đến cùng cực nên bà cụ Tứ hết sức lo lắng cho cuộc sống của các con. Chỉ một câu đáp là: Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khát này không? Băn khoăn ấy không phải là không có cơ sở. Cả xóm ngụ cư, lớn hơn là cả nước đang phải đảo điên trong nạn đói, giữ được mạng sống cho chính mình đã khó, ở đằng này, anh cu Tràng lại còn đèo bòng. Nỗi lo lắng của bà cụ Tứ cũng là nỗi lo của người mẹ có trách nhiệm với con cái. Ở tuổi gần đất xa trời, bà cũng có quyền vô lo vô nghĩ đến những điều đó lắm chứ. Nếu không thương con, và nếu không có trách nhiệm với cuộc sống của các con, bà cụ đã chẳng nhọc lòng, và khổ sở như vậy.

Trong Vợ nhặt, bà cụ Tứ cũng chỉ xuất hiện ở nửa sau của câu chuyện. Với những tình tiết đã xảy ra phía trước, và người đọc phỏng đoán bà cụ Tứ sẽ xuất hiện với bộ dạng cay nghiệt thường được thấy ở các bà mẹ chồng nông thôn. Nhưng ngay cả Tràng cũng thật bất ngờ trước thái độ của mẹ mình. Sự nhã nhặn trong cách cư xử, và đặc biệt là chuỗi diễn biến tâm trạng nhân vật khẳng định nhân cách cao đẹp của nhân vật nơi bà cụ Tứ. Trước mắt chúng ta là một trong người mẹ hết lòng thương con, là một bà cụ nghèo khó nhưng cũng phúc hậu rất mực. Tất cả những điều đã trải qua trong lòng của  bà cụ đã được Kim Lân ghi lại một cách chân thật, xúc động tột cùng.

Kim Lân là một trong những nhà văn có một khả năng am hiểu tâm lí nhân vật sâu sắc. Dưới ngòi bút của ông, những nông nổi sâu kín ở trong lòng người mẹ già được thể hiện chân thực, tinh tế, và xúc động và ám ảnh. Nếu không có sự yêu thương, cảm thông, chia sẻ, nơi nhà văn không thể thể hiện thành công diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ trong đoạn văn ngắn như thế. Hậu thuẫn cho tấm lòng nhân đạo chắc chắn cũng còn là bản lĩnh nghệ thuật của người cầm bút. Hình ảnh bà cụ Tứ cùng với hình ảnh chị Dậu, là hình ảnh người vợ cam chịu, tảo tần trong sáng tác của Nam Cao đã làm nên sự bất tử cho chính hình tượng người phụ nữ Việt Nam.

Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt (mẫu 3)

Bài phân tích bà cụ Tứ trong Vợ Nhặt do học sinh chuyên văn viết để các bạn tham khảo:

Không phải là một nhân vật chính, lại xuất hiện ở phần cuối của bài văn nhưng bà cụ Tứ – mẹ của anh cu Tràng trong Vợ nhặt của Kim Lân cũng đã góp phần làm cho tác phẩm sâu sắc hơn. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói deo dắt, Kim Lân muốn khắc họa lên số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám, có thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của nhiều những số phận khốn cùng ấy.

Sau tình huống nhặt được vợ, anh cu Tràng, nơi chị vợ và người mẹ đường như trở thành người khác. Và bà cụ Tứ người mẹ nghèo cũng đã bộc lộ tấm lòng sâu sắc của một người mẹ suốt đời những buồn đau, đã lo lắng đã đè nặng lên cuộc đời bà. Bởi thế nhân vật phụ này đã tạo lên một số phần không nhỏ giá trị nhân văn của tác phẩm.

Chân thật trong hình ảnh và chân thật trong từng chi tiết, cùng với Kim Lân dường như không kể mà dắt ta đến với bà cụ Tứ. Bắt đầu là cái dáng: “lọng không đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Có biết bao nhiêu thân thương, trìu mến. Ta gặp lại dáng hình gầy gầy, còng còng vì sương gió mà cuộc đời của người đàn bà quen thuộc. Từ “lọng không” cũng đầy sáng tạo và giàu sức tạo hình. Cái lẩm cẩm, và chậm chạp theo nổi “phấp phỏng” trước sự đón tiếp khác thường của ông “con giai”, cùng bà bước vào trong nhà. Khi thấy một người đàn bà đã đứng ngay ở đầu giường con mình, khi bà hết sức ngạc nhiên.

Hàng loạt câu hỏi đã đặt ra trong đầu óc già nua của bà chính là. “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ ? Sao lại chào mình bằng u ?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà lại dẫn không về một người vợ! Băn khoăn mãi khi hiểu ra, “bà lão cúi đầu nín lặng”, vừa “ai oán vừa xót thương cho số kiếp con mình”. Thương con để rồi tủi phận mình. “Chao ôi, người ta dựng vợ gả chồng cho con là trong lúc nhà ăn nên làm nổi, còn mình thì..”. Đọc những câu ở dòng này, ta có cảm giác như những trái tim người mẹ trong cái thân hình còm cõi và đang rung lên đau đớn, xót xa. Việc trọng đại trong đời con, còn lẽ ra “làm được dăm ba mâm cơm mới phải”, nhưng “nhà mình nghèo quá”, nên điều đó cũng chỉ nằm trong suy nghĩ, không thực hiện được.

Bà cụ thương con, còn tủi phận rồi lại thương dâu. “Người ta có gặp bước khó khăn đói khổ này, người ta mới đi lấy đến con mình. Mà con nhà mình mới có vợ được …” Vừa mừng tủi, vừa lo lắng, bà lo nỗi lo rất chính đáng của con người cũng đã trải qua cuộc đời cực nhọc, đớn đau: “Biết rằng chúng nó có nuôi nổi nhau sống qua được cơn đói khái này không?”. Nén nỗi lo trong lòng,và  bà cụ động viên con tin tưởng vào tương lại “Vợ chồng chúng mày liệu mà bảo nhau làm ăn. Rồi may ra ông giời cho khá… còn Biết thế nào hở con, ai giàu ba họ, ai khó ba đời?…”. Bà nói với con dâu bằng giọng của một người từng trải – vừa lo lắng, vừa thương xót; “…Năm nay thì đói to đấy. Chúng mày lấy nhau lúc này, u thương quá…” “ bà nghẹn lời không nói được nữa…” và ta hiểu, người con dâu bà lúc này rất hiểu bà, thấy thân thiết gắn bó với bà, với thực sự coi bà là mẹ. Và nghĩa là “ đám cưới ” đã xong.

Chẳng lễ nghi, không đưa đón, với  tấm lòng chân thật, nhân hậu của người mẹ nghèo đã thay thế tất cả. Đến đây ta cứ liên tưởng tới mẹ chồng cũng Dần trong “một đám cưới”(Nam Cao). Người mẹ ấy “mở tài ăn nói”, và nói rất nhiều, rất “ngọt ngào” để khỏa lấp sự “không có nhiều liền”, làm “mát lòng mát ruột” cha Dần. Chao ôi, những người mẹ nông dân cực nghèo trước cách mạng là thế ư? Tình yêu thương con, ý thức trách nhiệm của người làm mẹ đã khiến họ cưới vợ cho con bằng tất cả những khả năng mình có thể, và dẫu chỉ là lời nói…Nhưng nếu mẹ chồng Dần nói rất nhiều thì thì bà cụ Tứ lúc này ta  chỉ nói rất ít. Bà khóc “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”. Những giọt nước mắt ấy cũng đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật của bà. Bà dành lời cho những bữa cơm mừng con dâu ngày hôm sau – “toàn chuyện vui, chuyện sung sướng về sau này”, bà cũng say sưa với các con những dự định cho tương lai…

Từ sự ngỡ ngàng đến thoáng im lặng rồi “hiểu ra biết bao cơ sự”, từ giọt nước mắt tủi phận nghèo, thương con dâu đến nỗi lo lắng “không biết chúng có nuôi nhau sống nổi qua thì đói không” đến niềm vui mừng, niềm tin vào tương lai…, cùng tất cả đan xen, hiển hiện dưới ngòi bút Kim Lân. Tác giả đã đi sâu phân tích diễn biến tâm lý tinh tế của bà cụ Tứ, thể hiện một cách tài tình trong từng mỗi suy nghĩ, từng hành động, lời nói. Lỗi lo xa cho tương lai, cùng lối nhìn người mà ngẫm đến mình, tủi phận mình hay duy tâm của những người già: “…chẳng may ông giời bắt chết cũng phải chịu chứ biết làm thế nào mà lo được cho hết được? ”tưởng đọc lên ta không thể không chắc chắn đó chính là lời của bà cụ Tứ. Quả là không thể lẫn đi đâu được cách nói, cách nghĩ vừa lẩn thẩn, vừa hồn hậu của người mẹ già nông thôn.

Tác giả vừa hóa thân vào nhân vật cũng để phân tích diễn biến tâm lý vừa khách quan ghi lại. Đặt nhân vật trong hoàn cảnh không gian, cùng thời gian nhất định, Kim Lân đã diễn tả sâu sắc tâm trạng nhân vật. Bà cụ Tứ ngửi “mùi đốt đống rấm ở những nhà có những người chết thoảng vào khét lẹt” mà “nghĩ đến ông lão, nghĩ đến đứa con gái út”, đến “cuộc đời cuộc đời cực khổ dằng dặc của chính mình” để rồi phấp phỏng lo lắng cho tương lai của các con: “liệu chúng nó có hơn bố mẹ chúng nó trước kia không?”.

Nghệ thuật “biện chứng pháp tâm hồn” đã thể hiện nhuần nhị trong từng biến thái tinh tế, phong phú của tâm lý người của người mẹ nghèo. Tác giả phải có sự thấu hiểu, trân trọng đặc biệt, và phải có vốn sống phong phú đến mức độ nào mới có thể diễn tả một cách chân thực và tài tình đến vậy. Vợ nhặt không còn là những trang văn, đó là những trang đời – nhưng những trang đời thấm đẫm những giọt nước mắt tủi cực, xót xa, phấp phỏng nỗi lo cho tương lai và rạng rỡ trong trái tim người mẹ nghèo. Chân thực mà cũng thật cảm động, nơi hình ảnh bà cụ Tứ không chỉ giúp ta chứng kiến diễn biến tinh tế của tâm tư mà con rung cảm sâu sắc trước tâm, trước những tấm chân tình tha thiết của người mẹ.

Đọc truyện, có lẽ không ai quên được cách giấu giếm được đầy ngượng ngập, vụng về về những dòng nước mắt xót thương con của bà lão còn là: “Có đèn đấy à? ừ thắp lên tí cho sáng sủa…Dầu bây giờ đã đắt gớm lên mày ạ…”. Bà đã cố nén sự xúc động của mình, đã cố nuốt được những giọt nước mắt chát đắng xót xa vào trái tim vốn đã chát đắng xót xa vào trong trái tim vốn đã chát đắng của như một đời tủi cực. Và khi ấy, trước đôi mắt nhòa lệ của người đọc, của  dòng “nước mắt cứ chảy ròng ròng” sau lời bộc bạch tâm tình với những con dâu của bà lão lại hiện lên rõ nét hơn bao giờ hết. Những còn giọt nước mắt trong suốt từ đôi mắt đục mờ. Những giọt nước mắt lấp lánh lòng đã vị tha cao quý của người mẹ. Những giọt nước mắt mặn mòi là muối của đất, cũng là muối của trái tim yêu thương dạt dào như biển cả…

Những giọt nước mắt lặn vào trong ấy cũng đã hoá niềm vui chân thành trong xúc động “xăm xắn thu dọn, quét tước nhà cửa”, trong khi tíu tít những dự định nào ngăn buồng cho đôi trẻ, nào mua đôi gà… Để ý ta sẽ thấy chính là bà lão “gần đất xa trời” này lại là người nói đến tương lai nhiều hơn trên tất cả. Không đơn thuần chỉ là tâm lý lạc quan khỏe khoắn của người lao động, đó là tất cả niềm ao ước thiết tha về một ngày mai sáng sủa hơn cho con người của người mẹ nghèo. Có thể bà chẳng còn sống mấy nữa. Những bà sống vì con, tìm thấy ý nghĩa đời người trong sự chăm lo vun vén cho chúng con. Và bởi vậy, những ước muốn, hy vọng đâu chỉ dành cho tuổi trẻ – nó cũng trở nên đằm sâu, nồng thắm hơn trong tâm lòng của những người mẹ nghèo như một bà cụ Tứ. Ai dám bảo bà mẹ lẩm cẩm, dớ dẩn? Ai dám cười những ước mong, và dự định của bà? Cái gốc lạc quan, yêu thương không những không tàn héo đi mà còn ngược lại càng xanh tươi hơn trong mưa nắng cuộc đời. Tâm tính ấy làm ta xúc động, rất thấm thía bao điều…

Tâm tính ấy khiến bữa cháo thành bữa tiệc, dã khiến nồi cháo “chát xít, nghẹn bứ trong miệng mà ngon ngọt trong lòng”. Người đọc cười ra nước mắt trước sự hào hứng, thật sự vui vẻ khi bà lão “lễ mễ” bưng nồi cháo cám “nghi ngút khói” lên nhà, đon đả tươi cười múc cho con mà bảo là : “Cám đây mày ạ, hì. Ngon đáo để, cứ thử ăn mà xem”. Phải, cái nồi cháo cám hèn hạ đành rồi, tấm lòng người mẹ quê ngẫm lại không đáng thương, đáng quý hay sao? Dường như bà cố gắng càng xua đi cái không khí ảm đạm, cố gắng vượt lên hoàn cảnh bằng những sự tươi tỉnh động viên con. Bên trong cái vẻ tươi tỉnh ấy, và ta biết lòng người mẹ đang thổn thức.

Lòng người đọc cũng dâng lên bao xót xa… thấy tội nghiệp thay niềm vui của bà lão – cái niềm vui không cất cánh lên được. Bởi, như vẫn còn đó bát cháo cám, vẫn còn đó tiếng trống thúc thuế dồn dập đã khiến niềm vui không thể trọn vẹn… “Bà không dám để con dâu nhìn thấy bà khóc” còn người đọc thì nhìn thấy rõ chính những giọt nước mắt trong lòng bà, thấy rõ những giọt nước mắt của tác giả  Kim Lân khi viết những dòng này. Bằng tất cả sự nâng niu, trân trọng, nơi  Kim Lân đã để trái tim đập cùng một nhịp với trái tim người mẹ nông dân nghèo…

Qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã xây dựng thành công chính hình ảnh người mẹ nghèo trong trận đói khủng khiếp 1945. Người mẹ nghèo tiền bạc nhưng giàu lòng yêu thương và hết mình vì con vì cái – người mẹ Việt Nam truyền thống. Đằng sau bà cụ Tứ, ta thấy thấp thoáng những bóng dáng Lão Hạc, chị Dậu, mẹ Dần… những con người sống tận lòng cho những người thân yêu của chính họ.

Tham khảo thêm: