Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt

0

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt của Kim Lân tuyển chọn những bài văn mẫu siêu hay, đạt điểm cao của những bạn học sinh giỏi. Qua bài văn mẫu này các em biết các hướng đi và hướng giải quyết vấn đề nêu ra trong đề bài. Từ đó đối chiếu bài viết của mình và dựa trên dàn ý chi tiết với bài viết mẫu này để rút ra những kinh nghiệm cho việc giải quyết một đề văn trong các kì thi.

KHÓA ÔN CHUYÊN ĐỀ THI TỐT NGHIỆP THPT

NHANH CHÓNG LẤP LỖ HỔNG KIẾN THỨC - TỰ TIN NHẬP CUỘC ĐƯỜNG ĐUA ĐẠI HỌC

✅ Hệ thống hóa kiến thức trọng tâm theo từng chuyên đề thi tốt nghiệp THPT

✅ Cung cấp các phương pháp làm bài hiệu quả theo từng chuyên đề THPT

✅ Lưu ý các lỗi sai thường gặp và tips, mẹo gia tăng tốc độ làm bài

✅ Đầy đủ các môn Toán - Lí - Hóa - Anh - Văn - Sinh - Sử - Địa - GDCD

✅ Học phí chỉ 50K/chuyên đề

Nhân vật Thị trong Vợ nhặt nắm giữ một vai trò khá quan trọng trong, đã làm nổi bật chủ đề tư tưởng của tác phẩm. Đồng thời đã có vai trò quyết định trong việc hình thành nên tình huống truyện. Thông qua nhân vật này, tác giả đã thể hiện một ý nghĩa nhân văn cao đẹp. Con người ta dù có sống trong hoàn cảnh khốn cùng nào cũng sẽ luôn hướng về tương lai, không bao giờ mất đi niềm tin vào sự sống. Vậy dưới đây là những bài văn mẫu phân tích người vợ nhặt siêu hay, mời các bạn cùng mình theo dõi phần bên dưới đây.

Tham khảo thêm:

1. Dàn ý phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt

a) Mở bài phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

  • Giới thiệu về tác giả Kim Lân: là cây bút chuyên viết Truyện ngắn, ông am hiểu sâu sắc về đời sống của người nông dân và thường tập trung viết về họ.
  • Vợ nhặt là một trong số truyện ngắn đặc sắc viết về người nông dân của ông. Nhân vật đã đóng vai trò quan trọng trong tác phẩm này chính là người vợ nhặt.

b) Thân bài phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

* Lai lịch nhân vật Thị

  • Không có quê hương gia đình: ta có thể thấy nạn đói năm 1945 đã khiến biết bao nhiêu  con người bị dứt khỏi quê hương, gia đình.
  • Tên tuổi cũng không có và qua tên gọi “vợ nhặt”: đã  thấy được sự rẻ rúng của con người trong cảnh đói.

* Chân dung của nhân vật Thị

– Ngoại hình: đó là quần áo tả tơi như tổ đỉa, gầy sọp, khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn có hai con mắt.

– Lần thứ nhất: sau khi nghe câu hò vui của Tràng, Thị đã vui vẻ giúp đỡ, đây chính là những sự hồn nhiên vô tư của người lao động nghèo.

– Lần thứ hai:

  • Thị đã sưng sỉa mắng Tràng, từ chối ăn trầu để được ăn một thứ có giá trị hơn, và khi được mời ăn tức thì ngồi sà xuống, mắt sáng lên, “ăn một chặp bốn bát bánh đúc”.
  • Khi nghe Tràng nói đùa “đằng ấy có về với tớ cùng về”, Thị đã theo về thật bởi trong cái đói khổ, sau đó là cơ hội để Thị bấu víu lấy sự sống.

– Nhận xét: cái đói khổ không chỉ đã làm biến dạng ngoại hình mà cả nhân cách con người. Người đọc vẫn cảm thông sâu sắc với Thị vì đó mà không phải là bản chất mà do cái đói xô đẩy.

* Phẩm chất của nhân vật Thị

– Có một khát vọng sống mãnh liệt:

  • Quyết định theo Tràng về làm vợ dù là không biết về Tràng, chấp nhận theo không về không cần sính lễ vì Thị sẽ không phải sống một cảnh lang thang đầu đường xó chợ.
  • Khi đến nhà thấy hoàn cảnh nghèo khổ, và trái ngược lời tuyên bố “rích bố cu”, Thị “nén một tiếng thở dài”, dù ngao ngán vậy nhưng vẫn chịu đựng để có cơ hội sống.

– Thị là người ý tứ, nết na:

  • Trên đường về, Thị cũng đã rất rón rén e thẹn đi sau Tràng, đầu hơi cúi xuống, Thị ngại ngùng và cho thân phận vợ nhặt của mình.
  • Khi vừa về đến nhà, Tràng đã đon đả mời ngồi, chị ta cũng chỉ dám ngồi mớm ở mép giường, và hai tay ôm khư khư cái thúng, cũng đã thể hiện sự ý tứ khi chưa xác lập được vị trí trong gia đình.
  • Khi gặp mẹ chồng, ngoài câu chào Thị chỉ cúi đầu đó chính là, “hai tay vân vê tà áo đã rách bợt”, thể hiện sự lúng túng ngượng nghịu.
  • Sáng hôm sau, Thị dậy sớm quét tước nhà cửa, và không còn cái vẻ “chao chát, chỏng lỏn” mà hiền hậu, đúng mực.
  • Lúc ăn cháo cám, mới nhìn “mắt Thị tối lại”, vẫn điềm nhiên và vào miệng thể hiện sự nể nang, với ý tứ trước người mẹ chồng, không buồn làm bà buồn.

– Nhận xét: cái đói có thể cướp đi nhân phẩm ở trong khoảnh khắc nào đó chứ không vĩnh viễn cướp đi được tâm hồn của con người.

– Thị còn là người có niềm tin vào tương lai: kể chuyện phá kho thóc và trên Thái Nguyên, Bắc Giang để thắp lên hy vọng cho cả một gia đình, đặc biệt là cho Tràng.

– Nêu cảm nhận chung về hình tượng người vợ nhặt được sau khi phân tích.

c) Kết bài phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt

  • Khái quát lại giá trị nghệ thuật: xây dựng tình huống truyện độc đáo, cùng đó xây dựng hình tượng nhân vật thành công, ngôn ngữ giản dị, tự nhiên, bình dị…
  • Tác phẩm chứa đựng đầy giá trị hiện thực và nhân đạo sâu sắc: người đọc hiểu và cảm thông cùng với cảnh ngộ thương tâm, rẻ rúng của người lao động trong nạn đói, đã tố cáo thực dân, phát xít, ngợi ca khát vọng sống trong những cảnh cơ cực.

2. Bài văn mẫu phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt của tác giả Kim Lân (mẫu 1)

Bài phân tích nhân vật người vợ nhặt trong tác phẩm “Vợ nhặt” hay để các bạn tham khảo:

Trong nền văn học hiện thực Việt Nam trong giai đoạn những năm trước cách mạng và những năm đầu sau cách mạng tháng tám thành công, Kim Lân là một trong số những cái tên nổi bật nhất khi viết về đề tài người nông dân xã hội cũ. Dù có số lượng tác phẩm khá hạn chế, thế nhưng hầu như tác phẩm nào của Kim Lân cũng hay và có rất nhiều giá trị, là cơ sở xếp nhà văn vào một trong chín tác giả tiêu biểu nhất của nền văn học Việt Nam hiện đại. Điểm sáng và đáng lưu ý nhất trong những tác phẩm của Kim Lân ấy là giọng văn nhẹ nhàng, tình cảm và các tác phẩm của ông chủ yếu tập trung làm nổi bật vẻ đẹp tâm hồn của người, cùng hướng đến một lối thoát nhân văn cho những kiếp người lầm than và khốn khổ, chứ không tập trung tái hiện hiện thực khắc nghiệt đau thương của xã hội thời cũ. Vợ nhặt là một trong số những tác phẩm rất nổi tiếng và xuất sắc nhất của Kim Lân, đặt trong bối cảnh đất nước những ngày đau thương nhất  và  nạn đói năm 1945. Nhân vật vợ Tràng là một trong  kiếp người khốn khổ tột cùng, cái đói đã khiến thị tàn tạ, xơ xác, để nên xấu xí trong mắt những người đời, thế nhưng khi tìm hiểu sâu về nhân vật này ta mới phát hiện ra ở thị cũng có những phẩm chất rất tốt đẹp, đáng quý.

Nhân vật thị là một người đàn bà không tên, không tuổi, không quê quán, và không gia đình, và cũng chẳng ai biết thị từ đâu đến, cả cuộc đời trước khi gặp anh Tràng của thị dường như chẳng có gì để nhắc người ta nhớ đến nhiều. Cái hoàn cảnh khốn khổ của thị, chính là những hoàn cảnh chung của rất nhiều người nông dân trong nạn đói năm 1945 ấy, tại cái thời điểm mà kiếp người rẻ rúng như cọng rơm cọng rác nhặt ở ngoài đường. Không chỉ nghèo khó, không lai lịch, mà tên tuổi mà trên người thị còn mang đủ những bất hạnh của một gã người đàn bà, thị không có một nhan sắc xinh đẹp, và cũng có cái đói khổ nó lại càng làm cho cái nhan sắc xấu xí ấy thêm phần thảm hại, và người ta bắt gặp thị trong bộ ““áo quần tả tơi như tổ đỉa”, người ngợm “gầy sọp”, “trên khuôn mặt lưỡi cày xám xịt chỉ còn thấy mỗi hai con mắt”, rồi “cái ngực gầy lép nhô lên” và “hai con mắt trũng hoáy”. Bấy nhiêu những nét vẽ ấy thôi cũng đủ để thấy bản thân thị cũng đang bước dần những bước cuối đến cái nghĩa địa  nhưng của cuộc đời như nhiều số phận khốn khổ khác trong nạn đói kinh hoàng của đất nước.

Đã không có một ngoại hình hấp dẫn, những cách nói năng, hành động của thị cũng khiến người ta mang có nhiều phản cảm. Khi nghe anh Tràng hò mấy câu đùa cho khuây khỏa, và nghe thấy có cái ăn thị đã cong cớn, mỉa mai, rồi cũng chẳng biết ngại ngần thị đã sấn tới tranh đẩy xe với Tràng, “liếc mắt, cười tít”. Tuy nhiên sau bữa đẩy xe phụ, mà đã không được cái ăn, khi gặp lại Tràng thị đã sưng sỉa, chỉ thẳng vào mặt của Tràng mà mắng “Điêu, người thế mà điêu”. Khi nghe thấy anh Tràng đãi ăn là  “hai con mắt trũng hoáy của thị sáng lên”, điệu dáng đon đả, đã đổi hẳn thái độ. Và rồi thị cúi đầu ăn một chặp bốn bát bánh đúc không thèm chuyện trò gì, ăn xong thì lấy đôi đũa quệt ngang ở trên miệng, thở “hà”. Quả thực trước giờ chưa từng thấy người đàn bà nào ở trước mặt một người đàn ông lạ mới gặp hai lần mà có thể thoải mái, thậm chí đến mức vô duyên và trơ trẽn, hành động táo bạo và bất chấp vì miếng ăn như cô nàng thị. Nạn đói nó khiến cho tâm hồn và nhân cách con người đã trở nên rẻ rúng, thiểu não quá. Nhưng đến khi xét kỹ lại, nhìn lại hành động của nhân vật thị một cách nhân văn hơn, ta mới nhận ra rằng, khi thực tế khi đứng trước cái chết, cái đói, và đứng trước viễn cảnh hàng triệu người đang chết như ngả rạ trước mặt khó ai cũng có thể bình tĩnh và cư xử một cách bình thường được. Ai mà không sợ chết, thị cũng sợ chết, ngay lúc này đây khi gặp Tràng khi phải đối diện với những lưỡi hái của tử thần mà lại bắt được cọng rơm cứu mạng, thì những khao khát cũng được sống sót của thị bùng cháy. Thị bất chấp tất cả để có được miếng ăn, và vứt bỏ hết liêm sỉ, nhân cách chỉ vì được sống, quyết không buông bỏ cuộc sống về dễ dàng. Không chỉ có khao khát sống mãnh liệt mà khi bản thân thị còn có những khao khát được hạnh phúc, có được có một mái ấm, một tấm chồng để nương tựa những lúc khó khăn như thế này. Thành thử ra chỉ với một câu nói nửa đùa nửa thật như thế: “Này nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”, mà thị đã không ngần ngại nhận lời, và trở thành người vợ mặt dày, mày dạn theo không Tràng về. Đối với thị bây giờ cỗ bàn, đám rước đám hỏi chẳng còn quá quan trọng, miễn sao là có được một chỗ trú chân, với một gia đình và qua được cái đói thì mọi chuyện đều có thể qua hết. Thế là thị đã nên vợ nên chồng với Tràng bằng những niềm hy vọng mới mẻ, và thị mong rằng cái người trước mắt đã có thể sảng khoái mà đãi mình bốn bát bánh đúc, thì hẳn sau chung sống hắn cũng sẽ vẫn tử tế với mình, được nhiêu đó cũng đủ mãn nguyện rồi. Như vậy bên cạnh ý nghĩa nhân văn khiến trong sự kiện thị theo không Tràng, thì Kim Lân cũng phản ánh một hiện thực thật đau xót của xã hội lúc bấy giờ: giá trị con người đã dường như đã xuống đến mức âm, và thậm chí còn không bằng cọng rơm cọng rác, để đến nỗi những người làng và trông thấy Tràng dẫn vợ về họ còn cho đó là “của nợ”.

Những tưởng thị trời sinh đã đanh đá, khi chỏng lỏn và sưng sỉa nhưng khi nhìn thấy dáng vẻ của thị sau khi làm lẽ ra vợ Tràng ta mới nhận ra rằng, sự vô duyên, ghê gớm của thị chỉ là một cái vỏ bọc để bảo vệ thị trong nạn đói, thực tế rằng thị cũng là một người phụ nữ có được nhiều phẩm chất tốt đẹp được giấu kín sau dáng vẻ tàn tạ, cái khốn khổ kia. Trên đường trở về nhà với Tràng, thị bỗng được trở nên “e thẹn, rón rén”, đầu cúi xuống, cái nón tà nghiêng nghiêng và che nửa đi khuôn mặt đáng ngại ngùng, đúng với dáng vẻ của một cô dâu khi có bước về nhà chồng. Gặp phải cảnh trêu chọc của đám trẻ con, nơi ánh nhìn ái ngại của những người làng, thị thấy khó chịu, và tủi cho phận mình là một người vợ theo không, đã thành thử ra thị càng trở nên bối rối và “ngượng nghịu, chân nọ bước díu cả chân kia”, nom đến tiếc thương vô cùng. Khi đến nhà Tràng khung cảnh xác xơ, và tiêu điều của một căn nhà tạm, không có bàn tay những người đàn bà săn sóc, không khỏi khiến thị thất vọng, buồn lòng, và bởi có lẽ thị đã hy vọng về một ngôi nhà tươm tất, đủ đầy hơn, để cuộc đời thị từ đây bớt khổ sở cực . Những cảnh trước mắt kém quá xa so với những gì thị tưởng tượng, và tuy nhiên thị không vì thất vọng mà phàn nàn với Tràng, rồi thị bỗng trở thành một người đàn bà nhẫn nhịn và tế nhị “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, đã nén một tiếng thở dài”. Thị đã cất hết nỗi thất vọng, buồn bã của mình vào lòng, không để Tràng biết, quyết tâm cùng người chồng mới cưới xây dựng gia đình, và phấn đấu vượt qua cái nghèo cái khó. Khi ra mắt mẹ chồng, thị đã rất phải phép khi mà chào bà cụ Tứ, khi tưởng cụ không nghe thấy thị đã chào thêm lần nữa, dáng điệu khép nép, ngại ngùng, và thực sự thị đã lột xác trở thành một nàng dâu hiền lành, e ấp, đã khác hẳn với dáng bộ của người đàn bà đanh đá, chua ngoa ở bên ngoài chợ tỉnh.

Sau đêm tân hôn, nàng thị lột xác trở thành một người phụ nữ của gia đình, đảm đang tháo vát, đã gánh lấy cái trách nhiệm thu xếp nhà cửa, đem đống quần áo rách ra sân hong, gánh nước, quét sân, gom rác lại đem vứt, rồi dọn cơm,… Không khí gia đình trở nên hòa hợp vui vẻ có nhiều hy vọng hơn cả. Đặc biệt khi đối diện với nồi cháo cám đắng ghét, nghẹn ứ nơi cổ họng của bà cụ Tứ, “đôi mắt thị tối lại” nhưng vẫn là “điềm nhiên và vào miệng”, không nói năng hay tỏ thái độ gì cả. Cách cư xử tế nhị ấy của thị, cũng đã bộc lộ một nét tính cách khác của thị ấy là sự thấu hiểu và cảm thông cho người mẹ già thương con ấy , thị hiểu rằng vì nghèo quá không có gì đãi bạn nhân ngày tân hôn thế nên bà cụ tội nghiệp mới cố kiếm một nồi cháo cám kia. Và trong không khí gia đình vui vẻ ấy, thị cũng không muốn phá hỏng nó, khiến cho bà cụ đã trở nên bối rối. Cuối cùng với cảnh thị kể việc ở Thái Nguyên, Bắc Giang có người ta không chịu đóng thuế mà đi phá kho thóc của Nhật cũng đã bộc lộ những suy nghĩ và hướng nhìn mới của thị, nơi người đàn bà bà này không cam chịu cuộc đời đói kém, và có lẽ trong khi một mai thị sẽ cùng chồng là Tràng đi phá kho thóc, cũng theo cách mạng để giải phóng cuộc đời, tìm kiếm tương lai tươi sáng hơn.

Nhân vật thị trong truyện ngắn của Vợ nhặt của Kim Lân là nhân vật đại diện cho hàng triệu kiếp những người nông dân Việt Nam trong nạn đói năm 1945. Tuy nhiên sống trong cảnh khốn khổ thì cùng đường nhưng thị vẫn giữ cho mình được những vẻ đẹp tâm hồn quý giá, và tiêu biểu nhất ấy là niềm khao khát được sống, khao khát hạnh phúc, với niềm hy vọng vào một tương lai mới tốt đẹp hơn. Bộc lộ rõ nét tư tưởng của  nhân văn, nhân đạo mà tác giả muốn truyền tải khi ở trong tác phẩm của mình.

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt của Kim Lân (mẫu 2)

Bài phân tích nhân vật người vợ nhặt hay đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:

Nhân vật “Thị” là một trong thành công đặc sắc của Kim Lân trong nghệ thuật phân tích tâm trạng của người phụ nữ cùng khổ trong nạn đói năm Ất Dậu 1945.

Nhân vật vợ Tràng đã được miêu tả bằng những nét ám ảnh, xót thương, và có vai trò tô đậm tư tưởng nhân đạo của tác phẩm Vợ Nhặt.

Trận đói đã đang diễn ra vô cùng khủng khiếp. Người chết đói như ngả rạ khi quạ bay vù lên như những đám mây đen trên bầu trời. Đoàn người chạy đói từ những vùng Nam Định, rồi Thái Bình đội chiếu lũ lượt như những bóng ma xanh xám, đã nằm ngổn ngang khắp lều chợ. Mùi gây của xác người thị cũng chạy đói “ngồi vêu ra” cùng với mấy chị con gái nơi cửa nhà kho. Không họ tên, và không rõ quê quán, tuổi tác. Chắc cha mẹ và anh chị em đã chết đói cả rồi? Cái đói đã cướp đi của tất cả và lần đầu nghe Tràng hò “muốn ăn cơm trắng mấy giò…”, Thị đã bị mấy cô bạn “đẩy vai”. Thị “cười như nắc nẻ” cong cớn nói với Tràng rằng: “Này nhà tôi ơi, nói thật hay nói khoác đấy?”. Thị “liếc mắt cười tít” làm cho anh cu Tràng này “thích lắm”. Lần sau, Thị gặp lại Tràng thì thay đổi hẳn. Áo quần rách tả tơi như tổ đỉa và  Thị gầy sọp đi. Khuôn mặt lưỡi cày đã xám xịt chỉ còn thấy hai con mắt. Dưới chân Thị là vực thẳm, đó là chết đói! Thị “sưng sỉa” trách Tràng là “điêu”, “leo lẻo cái mồm hẹn xuống thế mà đã mất mặt!”. Thấy Tràng vỗ vào cái túi khoe “rích bố cu”, và hai con mắt “trũng hoáy” của Thị tức thì đã sáng lên. Thị “đon đả” với anh cu Tràng: “Ăn thật nhá!”. Thị đã ăn cắp liền một chặp bốn bát bánh đúc rồi thở, và lời khen: “Hà, ngon!”. Cũng biết đùa, và biết trêu giai như phần đông các cô gái khác, khi nói với Tràng rất lẳng lơ: “Về chị ấy thấy hụt thì bỏ bố!”. Chỉ có một câu nói tầm phào của Tràng “làm đếch gì có vợ…”, thế là Thị đã theo về ngay, “Thị về thật”. Khi đứng trong cái nhà “vắng teo… rúm ró” của người mẹ con Tràng, Thị đảo mắt nhìn xung quanh, thất vọng “cái ngực gầy lép nhô hẳn lên, đã nén một tiếng thở dài”.

Từ dáng điệu, đến cử chỉ đến cách ăn nói đối đáp, Thị vừa cong cớn, vừa thô lỗ và sỗ sàng. Thị đã nhịn đói nhiều ngày và bị cái đói hành hạ đến chết đói là điều cầm chắc là cần được ăn để sống. Thị cần có nơi nương tựa để khỏi chết đói của bản chất tốt đẹp của người con gái đã bị nạn đói, khi cái đói khủng khiếp cướp mất đi, che lấp đi họ thật đáng thương! Thị có khác gì người ăn mày nọ không:

“Ăn mày là ai? Ăn mày là ta!

Đói cơm rách áo hóa ra ăn mày!”

(Ca dao)

Bản chất của người con gái đói khổ ấy không rõ họ tên này không phải là xấu. Cách kể, cách tả của Kim Lân rất đôn hậu, và nhiều bao dung, thương cảm, đem đến cho ta nhiều xúc động ấy.

Chỉ qua một ngày một đêm, và sau khi đã thành vợ của Tràng, thành “nàng dâu mới” của bà cụ Tứ, ta đã thấy nhân vật này có những biểu hiện, những tình cảm tốt đẹp như bao người phụ nữ khác. Dù cho kề bên cái chết, cô gái này đã vẫn khao khát hạnh phúc, muốn được sống trong mái ấm của gia đình, một mái ấm tình thương, đã có chồng con như những người đàn bà may mắn khác. Trước cái nhìn tò mò của những bà con xóm chợ, Thị “ngượng nghịu, với chân nọ bước dịu cả vào chân kia”. Nghe bọn trẻ con nó gào lên: “Anh Tràng ơi! Chông vợ hài”, Thị “nhíu đôi mày lại”, rồi đưa tay hướng lên “xóc xóc lại tà áo”. Chưa gặp bà cụ Tứ, Thị rất băn khoăn và thực sự lo lắng “mặt bần thần”. Đứng trước mặt mẹ chồng, trông Thị rất đáng thương và bỡ ngỡ: “cúi mặt xuống, tay vân vê tà áo đã rách bợt”.

 

Nghe bà cụ Tứ đã nói: “Con ngồi xuống đây. Ngồi xuống đây để cho đỡ mỏi chân” Thị “vẫn khép nép đứng nguyên chỗ cũ”. Đó chính là tâm trạng của một người con gái lấy chồng không một quả cau, một lá trầu và không cưới. Tủi cho cảnh ngộ. Tủi cho duyên số đó thật đáng thương!.

Thị cũng có rất nhiều biểu hiện rất nữ tính “hay đáo để”. Cái “liếc mắt cười tít” lần đầu gặp Tràng. Cái phát đánh đét vào lưng vào Tràng với tiếng mắng yêu: “Khỉ gió”. Một lời trách nhẹ chồng là: “… chuyện đại thế, đợi sốt cả ruột”. Một cái củng vào trán Tràng rồi kèm theo câu nói yêu: “Chỉ được cái thế là nhanh. Dơ!”. Sau bao tháng ngày, chạy đói, và sống vất vưởng lang thang nơi đầu đường xó chợ, cái chết đói đến dần, Thị cũng đã trở thành vợ của Tràng, dù còn nhiều thử thách lo lắng, nhưng Thị sẽ có sự đổi đời. Niềm vui trong tối tân hôn thể hiện cảm động với niềm khát khao hạnh phúc của một người phụ nữ trong khi đói khát hoạn nạn. Hạnh phúc muộn màng bằng nhưng đáng quý giá biết bao! Ngòi bút hóm hỉnh của Kim Lân thể hiện biết bao trân trọng trước niềm vui hạnh phúc và sự đổi đời của nhân vật vợ chồng Tràng.

Nhân vật vợ Tràng có nhiều thay đổi tốt đẹp đã dậy sớm cùng mẹ chồng quét tước, thu dọn nhà cửa sạch sẽ gọn gàng, và xây đắp tổ ấm hạnh phúc. Tiếng chổi quét sân của Thị đã “kêu sàn sạt trên mặt đất” tưởng như niềm vui đang xôn xao trong lòng Thị và khi Thị “lẳng lặng” đi vào bếp dọn bữa ăn sáng, Tràng cảm thấy vợ mình rất là đáng yêu. Bà cụ Tứ đã có “nàng dâu mới”, khi Tràng đã có vợ. Nhà thêm người, thêm bát đũa, và thêm nhân lực. Thị đã đem sinh khí, với thông tin mới mẻ về thời cuộc cho mẹ con Tràng cũng Nghe tiếng trống thúc thuế, khi Thị nói với mẹ chồng và chồng: “Trên mạn Thái Nguyên, Bắc Giang người ta không có chịu đóng thuế nữa ta cả kho thóc của Nhật chia cho những người đói nữa đấy”. Qua đó, ta cảm thấy nhân vật vợ Tràng là “nàng dâu mới” cũng là người truyền tin cách mạng.

Vai trò nhân vật vợ Tràng trong câu  truyện “Vợ nhặt” là một nhân chứng tố cáo, lên án tội ác tày trời của Nhật và Pháp gây ra nạn đói năm 1945 làm hơn hai triệu đồng bào ta đã bị chết đói. Nạn đói do chúng gây ra khủng khiếp cũng  đã hạ thấp nhân phẩm con người, cướp đi mọi giá trị của con người biến người và con gái như một thứ đồ rẻ rúng có thể “nhặt” được!

Nhân vật vợ Tràng gầy đói xác xơ, khi về làm dâu bà cụ Tứ phải mặc áo quần rách như tổ đỉa, với bữa cơm đầu tiên ở nhà chồng là một bữa cháo cám – hình ảnh ấy, và tình tiết ấy thật đáng thương. Và đó cũng là nỗi đau, là nỗi nhục của nhân dân ta trong cảnh lầm than nô lệ.

Nhân vật vợ Tràng trong truyện “Vợ nhặt” cũng đã nói lên một sự thật ờ đời. Trong đói khổ hoạn nạn, kề bên cái chết, khi nhân dần ta vẫn khao khát được sống ấm no và hạnh phúc. Những người nghèo khổ đã biết dựa vào nhau, rồi san sẻ vật chất và tình thương cho nhau để vượt qua thử thách nơi khắc nghiệt, vươn tới ấm no hạnh phúc và sự đổi đời với niềm tin và sự: “Ai giàu ba họ, ai khó ba đời”… Cũng như bà cụ Tứ, anh cu Tràng, và nhân vật vợ Tràng đã có vai trò thể hiện tư tưởng nhân đạo ở tác phẩm “Vợ nhặt”.

Phân tích nhân vật Thị trong Vợ Nhặt của Kim Lân (mẫu 3)

Bài phân tích nhân vật người vợ nhặt hay do học sinh chuyên văn làm để các bạn tham khảo:

Trong tác phẩm Vợ nhặt người vợ đã không thực sự được khai thác nhiều. Nhưng với nhân vật này, tác giả Kim Lân cũng gửi đến những thông điệp đầy ý nghĩa và nhân văn, đã thể hiện tấm lòng nhân đạo sâu sắc của tác giả.

Người vợ nhặt được cũng được xây dựng là người phụ nữ nghèo khổ, cơ cực, túng quẫn. Thị không có bất cứ giá sản gì, ngay cả cái tên cũng không có, nếu thị chỉ được gọi một cách chung chung và đầy rẻ rúng chính là vợ nhặt. Thị không có nhà cửa, hai lần đã gặp Tràng chỉ thấy thị vất vưởng nơi đầu đường xó chợ. Thị không có họ hàng, cũng không có nghề nghiệp. Trong hoàn cảnh toàn dân Việt Nam đang phải oằn mình chống đã lại nạn đói, thị không có bất cứ một chỗ dựa nào, thị sống trong sự dồn đuổi của những cái chết, hàng ngày, hàng giờ, và cái đói đã biến thị trở nên xanh xao, hốc hác, gò má cao, không còn một chút sự sống.

Chính hoàn cảnh đã bị đẩy đến bước đường cùng, đã khiến cho thị đánh mất lòng tự trọng của chính  bản thân. Nỗi ám ảnh về cái đói, và cái chết không chỉ vắt kiệt sự sống của người đàn bà nghèo mà còn xói mòn cả nhân cách, nhân phẩm của thị, nó được thể hiện rõ qua hai lần gặp gỡ với nhân vật Tràng. Lần thứ nhất, gặp Tràng vốn là người đã không quen biết, chỉ vì một câu hò vu vơ, nàng Thị đang ton ton chạy ra, híp mắt cười tình, rồi đẩy xe bò cho anh Tràng. Mãnh lực của miếng ăn quá lớn, khiến thị đánh mất sự e dè, và thẹn thùng vốn có.

Lần thứ hai gặp lại sự trơ trẽn, đã vô duyên đã đánh mất cả lòng tự trọng. Sau lần gặp gỡ đầu, không có bất cứ một lời hẹn ước nào cả, nhưng khi gặp lại Tràng, thi sầm sập chạy đến, đứng trước mặt mà nói là: “Điêu! Điêu. Người thế mà điêu”. Và chỉ đến khi nhận được lời mời cho đi ăn, thì thị đã không còn chút ý tứ, ngồi xuống cắm đầu ăn một chặp hết cả bốn bát bánh đúc. Những câu văn ngắn diễn tả hành động ăn uống thô tục, đã lỗ mãng của thị. Nỗi ám ảnh của cái đói đã khiến thị trở nên táo bạo, và liều lĩnh. Nhân cách, lòng tự trọng là đáng quý nhất đối với con người đã bị bán rẻ vì miếng ăn. Đó là hiện thực đau xót mà không chỉ có cô vợ nhặt mới vậy, mà rất nhiều người dân Việt Nam rơi vào tình cảnh này. Và liều lĩnh nhất là chỉ có một câu nói đùa của Tràng, cô đã theo anh về làm vợ nagy. Trong hoàn cảnh không còn đâu để bấu víu đó , thì dù có là vợ nhặt cô cũng chấp nhận để thoát khỏi được sự truy đuổi của thần chết.

Cũng như nhân vật Tràng, sau khi đã lập gia đình, người vợ nhặt đã có sự thay đổi vô cùng lớn. Đầu tiên là sự thay đổi tâm lý, tính cách, trên đường về nhà, trước sự để ý của người dân, thị cắp cái thúng con, e dè, ngại ngùng và  đi cạnh Tràng. Những biểu hiện ở dáng điệu đó cho thấy cái sự xấu hổ, ngượng ngùng trong tâm lý của thị. Đó cũng là biểu hiện đầu tiên là đánh dấu sự trở lại của nữ tính, sự trơ trẽn, chỏng lỏn đã không còn như trước. Trong lòng cô vợ nhặt còn dấy lên niềm lo lắng cho tương lai và về đến nhà, nhìn thấy ngôi nhà xiêu vẹo, đầy những cỏ dại vây xung quanh, với cái ngực lép của thị nhô lên, nén một tiếng thở dài. Vào đến nhà, cô ngồi ghế ở mép giường, tay ôm chặt cái thúng.

Trước mặt mẹ chồng, cô cũng đã lễ phép chào hỏi, tay mân mê tà áo đã rách bợt đi. Những hành động, cử chỉ của thị thể hiện một sự tâm lí dễ hiểu đó là sự e thẹn khi lần đầu tiền đối diện với người mẹ chồng. Song cũng bộc lộ phần nào sự lễ phép, dịu dàng trong những cách giao tiếp với người lớn tuổi. Những biểu hiện này một lần nữa cho thấy, đó là cái chỏng lỏn chỉ là sản phẩm của sự xô đẩy của hoàn cảnh, còn trong thẳm sâu bản chất đó thì vẫn là tâm hồn đầy nữ tính.

Sự thay đổi rõ nhất trong cái tính cách chính là buổi sáng đầu tiên sau khi thị đã lấy chồng. Qua cái nhìn của nhân vật Tràng, khi thị hôm nay đã khắc hẳn, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu, rất đúng mực, không còn chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ở ngoài tỉnh. Những thay đổi trong cảm nhận của Tràng xuất phát từ việc làm hết sức giản dị mà ý nghĩa mà cô vợ đã nhặt đã làm: dậy sớm, cùng mẹ dọn dẹp, quét tước nhà cửa,… khi đó Thị đã đem đến màu sắc tươi sáng vào căn nhà lạnh lẽo, u ám của Tràng. Tất cả những hành động đó cũng đã cho thấy sự đảm đang, tháo vát của cô đã cùng cho thấy thị thực sự yêu thương, trân trọng tổ ấm gia đình, và có khát vọng thật mãnh liệt vào hạnh phúc gia đình.

Không chỉ biến chuyển trong tính cách mà thị còn có một sự biến chuyển trong nhận thức. Hạnh phúc đối với người vợ nhặt quả không hề dễ dàng, và bởi sự dồn đổi của cái đói và cái chết. Đêm tân hôn của hai vợ chồng cũng phải diễn ra trong tiếng khóc tỉ tê của nhiều những gia đình có người chết. Bữa cơm đầu tiên đón cô dâu mới chính là nồi cháo cám mặn chát, và lõng bõng là nước. Nhưng chính lúc ấy, trong tâm hồn thị vẫn còn có niềm tin mãnh liệt vào tương lai.

Không phải ngẫu nhiên, trong ba nhân vật nhà văn Kim Lân lại chọn thị chứ không phải hai nhân vật còn lại nói về khởi nghĩa, đã  phá kho thóc Nhật. Có lẽ bởi một người dám đánh đổi tất cả, và kể cả trở thành vợ nhất để được sống, thì khát vọng sống, hạnh phúc ở họ là không thể đi hủy diệt. Dù không nói rõ về tương lai, nhưng ở một con người đã ham sống, ở một tinh thần khỏe khoắn như người vợ nhặt, Kim Lân cũng  cho thấy tinh thần hăng hái, chắc chắn là Thị sẽ theo cách mạng.

Nhân vật người vợ nhặt được tác giả Kim Lân đặt vào tình huống hết sức độc đáo, từ đó nhân vật bộc lộ tâm trạng, với cách hành xử của bản thân. Nhân vật được tập trung khắc họa ở cử chỉ, nơi hành động qua đó làm bật lên vẻ đẹp của người vợ nhật.

Bằng ngòi bút tin yêu và trân trọng, nhà văn Kim Lân đã dựng lên một chân dung bất hủ của văn học. Người vợ nhặt chính là nạn nhân tiêu biểu nhất của nhiều người nạn đói năm 1945, nạn đói đã làm nhòe mờ nhân cách, với lòng tự trọng của nhân vật. Nhưng ẩn sâu trong con người ấy vẫn chính là một người phụ nữ đầy dịu dàng, nữ tính, và biết vun vén có khao khát hạnh phúc mãnh liệt, đồng thời cũng là người có niềm tin và có những mãnh liệt vào tương lai.

Tham khảo thêm: