Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ nhặt có thể là một chủ đề hơi khó đối với nhiều những bạn học sinh. Chính vì vậy việc triển khai và đã sắp xếp nội dung ý tưởng phải thật hợp lý rất mạch lạc. Nếu như các bạn lớp 12 vẫn còn đang còn băn khoăn chưa biết nên bắt đầu từ đâu, thì hãy tham khảo những bài văn phân tích Tràng trong những bài viết dưới đây nhé.
Với những bài phân tích nhân vật Tràng trong bài viết dưới đây sẽ giúp các bạn học sinh lớp 12 hiểu rõ hơn về hoàn cảnh, với tâm trạng và hành động của nhân vật Tràng và thông điệp mà Kim Lân muốn gửi gắm qua nhiều hình tượng nhân vật này. Vậy dưới đây là những mẫu phân tích nhân vật Tràng mời các bạn cùng đón đọc và tham khảo nhé.
Tham khảo thêm:
- Phân tích nhân vật Thị trong Vợ nhặt
- Phân tích nhân vật bà cụ Tứ trong Vợ nhặt
- Phân tích bài Vợ nhặt
- Mở bài Vợ nhặt hay nhất
- Kết bài Vợ nhặt hay
1. Dàn ý phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt
a) Mở bài phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt
– Giới thiệu về nhà văn Kim Lân trong truyện ngắn Vợ Nhặt:
- Tác giả Kim Lân (1920 – 2007) là cây bút viết truyện ngắn chuyên nghiệp, ông hay tập trung viết về cảnh nông thôn và hình tượng người nông dân lao động khổ cực .
- “Vợ Nhặt” (1955) đã khắc họa rất rõ nét và thành công bức tranh của nạn đói năm Ất Dậu và nạn đói lịch sử của nước ta năm 1945.
– Giới thiệu và khái quát về nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt: Tràng là hình tượng đại diện cho số phận của những người nông dân nghèo trong giai đoạn này, nghèo đói và bất hạnh nhưng lại có một tấm lòng giàu tình thương người và giàu khát vọng hạnh phúc.
b) Thân bài phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt
* Khái quát về toàn hoàn cảnh của sáng tác của tác phẩm
– “Vợ nhặt” được viết vào năm 1955 được in lần đầu trong tập truyện ngắn “Con chó xấu xí” (1962).
– Truyện Vợ Nhặt có tiền thân là tiểu thuyết “Xóm ngụ cư” tác phẩm viết sau Cách mạng tháng Tám nhưng còn dang dở và bị mất bản thảo và sau khi hoà bình lập lại vào năm (1954) nhà văn dựa vào cốt truyện cũ đặt tên là Vợ nhặt.
* Hoàn cảnh về nhân vật Tràng
– Hoàn cảnh xã hội vào những Năm 1945 và nạn đói khủng khiếp xảy ra tràn lan khắp nơi, người chết như ngả rạ và người sống cũng dật dờ như những bóng ma.
– Hoàn cảnh gia đình: là dân ngụ cư và làm nghề đẩy xe bò, cha mất sớm và sống cùng với mẹ già, bị khinh bỉ, nhà ở tồi tàn và cuộc sống bấp bênh,…
– Hoàn cảnh bản thân: ngoại hình xấu xí và thô kệch, “hai con mắt nhỏ tí”, “hai bên quai hàm bạnh ra”, thân hình to lớn vập vạp và trí tuệ ngờ nghệch, vụng về,…
=> Tràng là một trong những người nông dân bình dị và nghèo khổ lại xấu xí.
* Tình huống nhặt vợ và tâm trạng và hành động của Tràng
→ Tình huống nhặt vợ: Tràng – anh nông dân nghèo thô kệch và dân ngụ cư bỗng “nhặt” được vợ trong nạn đói khủng khiếp năm 1945.
– Lần đầu gặp: lời hò của Tràng chỉ là lời nói đùa của người lao động chứ không có tình ý gì với cô gái đẩy xe cùng mình.
– Lần thứ 2 gặp :
- Khi bị cô gái mắng và Tràng chỉ cười toét miệng và mời cô ta ăn dù không dư dả gì. Đó là hành động của người đàn ông hiền lành tốt bụng.
- Khi người đàn bà đã quyết định theo mình về: Tràng trợn nghĩ về việc đèo bòng thêm miệng ăn và nhưng rồi tặc lưỡi “chậc, kệ”. Đây không phải là quyết định của kẻ bồng bột mà là thái độ dũng cảm và chấp nhận hoàn cảnh, khát khao hạnh phúc, thương yêu người cùng cảnh ngộ.
– Đưa người vợ lên chợ tỉnh mua đồ: diễn tả sự nghiêm túc và chu đáo của Tràng trước quyết định lấy vợ.
⇒ Trong cái nạn đói khủng khiếp của năm 1945 và người ta nuôi thân còn chả xong nhưng vậy mà trong cái đói khổ ấy Tràng lại đem về một người vợ.
→ Tâm trạng và hành động lúc đó của Tràng:
– Lúc đầu Tràng tỏ ra rất lo lắng trước cảnh nghèo “… thóc gạo này mà còn đèo bòng” sau cũng tặc lưỡi “chậc, kệ”.
– Trên đường về lúc đó :
- Vẻ mặt của Tràng “có cái gì phơn phởn khác thường”
- “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy rất sĩ diện và tự đắc”,… -> hạnh phúc và hãnh diện.
- Mua dầu về thắp để khi vợ về nhà mình căn nhà trở nên sáng sủa.
→ Khi về đến nhà:
- Xăm xăm bước vào dọn dẹp sơ qua và thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu những bàn tay của đàn bà -> Hành động ngượng nghịu nhưng chân thật, mộc mạc của Tràng .
- Khi bà cụ Tứ chưa về và Tràng có cảm giác “sờ sợ” vì lo rằng người vợ sẽ bỏ đi vì gia cảnh quá khó khăn và sợ hạnh phúc sẽ tuột khỏi tay.
- Sốt ruột chờ mong bà cụ Tứ về để thưa chuyện vì trong cảnh đói khổ này vẫn phải nghĩ đến quyết định của mẹ. -> Biểu hiện của đứa con đã biết lễ nghĩa.
- Khi bà cụ Tứ về và thưa chuyện một cách trịnh trọng và biện minh lý do lấy vợ là “phải duyên”, căng thẳng mong mẹ vun đắp và khi bà cụ Tứ tỏ ý mừng lòng Tràng thở phà và , ngực nhẹ hẳn đi.
→ Sáng hôm sau khi tỉnh dậy:
- Tràng nhận thấy được sự thay đổi kỳ lạ của ngôi nhà (sân vườn, ang nước và quần áo,…)
- Tràng nhận ra vai trò và vị trí của người đàn bà trong gia đình quan trọng hơn .
- Thấy mình trưởng thành hơn và có trách nhiệm hơn với gia đình, với mẹ và với vợ và những đứa con sau này.
- Lúc ăn cơm hình ảnh đám người đói và những lá cờ bay phấp phới trong suy nghĩ. -> những hình ảnh báo hiệu sự đổi đời và con đường đi mới.
⇒ Từ khi nhặt được vợ, nhân vật Tràng đã có rất nhiều sự biến đổi theo chiều hướng tốt đẹp: hào phóng và quên đi hết những cây cực tăm tối trên đời và chấp nhận cuộc sống khốn khó cùng vợ vượt qua tất cả, tin tưởng sự đổi đời ở tương lai.
* Đặc sắc về nghệ thuật đó chính là
– Xây dựng những tình huống truyện độc đáo và hấp dẫn
– Phân tích và miêu tả về diễn biến tâm lí nhân vật Tràng
– Nghệ thuật dẫn truyện của Kim Lân
– Đặt nhân vật vào tình huống éo le và độc đáo để nhân vật bộc lộ tâm trạng và tích cách
– Ngôn ngữ bình dị và rất gần gũi.
c) Kết bài phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt
– Đánh giá và cảm nhận chung của em về nhân vật Tràng.
– Khái quát giá trị nghệ thuật xây dựng nhân vật của Kim Lân .
2. Văn mẫu phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt
Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của (Mẫu 1)
Bài phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt cực hay để các bạn tham khảo:
Kim Lân là một trong những cây bút chuyên viết truyện ngắn về nông thôn và hình tượng người nông dân lao động. “Vợ nhặt” được sáng tác vào năm 1955 đã khắc họa rất thành công bức tranh của nạn đói lịch sử năm 1945. Ban đầu, truyện ngắn này có tên là Xóm ngụ cư. Truyện ngắn này đã chạm đến đáy trái tim của người đọc, khi miêu tả chân thực về cuộc sống của người dân giữa nạn đói khủng khiếp và người chết như ngả rạ; vừa mang ý nghĩa nhân văn sâu sắc và lại ca ngợi tình yêu thương về vẻ đẹp người dân Việt Nam. Bên cạnh nhân vật bà cụ Tứ và nhà văn Kim Lân đã khắc họa chi tiết và chân thực, đặc sắc diễn biến tâm trạng Tràng – con trai bà cụ Tứ. Phân tích nhân vật Tràng cho thấy dù trong hoàn cảnh như thế nào cùng quẫn hay đói khát, nhưng Tràng – đại diện cho người lao động nghèo vẫn khao khát tình yêu và hạnh phúc gia đình , lấp lánh niềm tin vào cuộc sống, tương lai phía trước.
Tràng là một người lao động nghèo khổ nhất làng , hơi bất bình thường và anh lại có ngoại hình xấu xí “hai con mắt nhỏ tí và gà gà”, “lưng to bè bè như lưng gấu”, “hai bên quai hàm bè ra, rung rung làm cho bộ mặt thô kệch của Tràng lúc nào cũng nhấp nhỉnh những ý nghĩ vừa lý thú lại vừa dữ tợn… Hắn có tật vừa đi vừa nói. Hắn lảm nhảm và than thở những điều hắn nghĩ”. Anh sống ở xóm ngụ cư để nuôi mẹ già. Anh làm công việc đẩy xe bò mướn để mưu sinh . Dù nghèo khổ nhưng anh vô cùng tốt bụng và hết mực yêu trẻ con, thường hay vui đùa với những đứa trẻ trong xóm làng . Cuộc sống lao động vất vả nghèo khổ hàng ngày đã hằn lên ngoại hình của hắn: “Tràng đi từng bước mệt mỏi và chiếc áo nâu tàn vắt sang một bên cánh tay, cái đầu trọc nhẵn chúi về phía trước…”. Dưới ngòi bút tả thực của Kim Lân về nhân vật Tràng hiện lên thật đáng thương và tội nghiệp đến thắt lòng.
Tâm trạng của Tràng biến đổi khi bất ngờ “nhặt” được vợ ngoài đường trong nạn đói 1945. Lần gặp đầu tiên, lời nói đùa của Tràng chứ không hề có tình ý nào với cô gái đẩy xe cùng mình. Bởi hắn chẳng bao giờ nghĩ một người nghèo như hắn lại có vợ cả. Ấy thế mà “hắn đang gò lưng kéo cái xe bò thúc vào dốc đỉnh và hắn hò một câu chơi cho đỡ nhọc”. Hắn hò: “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này! Lại đây mà đẩy xe bò với anh . Ấy thế mà, người phụ nữ lại ra đẩy với hắn. Hôm sau gặp lại, Tràng đãi người đàn bà ấy 4 bát bánh đúc và đồng ý theo hắn về làm vợ. Tâm trạng lúc đó của hắn lúc đó “khiến Tràng cũng không ngờ, Tràng chỉ tầm pha tầm phào đâu có hai bận thế mà thành vợ thành chồng”.
Diễn biến tâm trạng của Tràng diễn ra từ bất ngờ cho đến khi vui vẻ, hạnh phúc, nhưng không thiếu nỗi lo về phía trước. Ở lần gặp thứ hai , khi bị người đàn bà ấy mắng, hắn toét miệng cười và mời ăn dù mình cũng không dư giả gì. Hành động đó chứng tỏ Tràng là một người nông dân hiền lành và tốt bụng.
Đặc biệt khi người đàn bà quyết định theo mình về thì hắn bắt đầu thấy lo lắng vì phải lo thêm miệng ăn giữa thời buổi người chết ngoài đường như ngả rạ. Nhưng rồi anh cũng lại tặc lưỡi “chậc, kệ”. Hành động của Tràng lúc đó không phải bồng bột, thiếu suy nghĩ, sĩ diện, mà đó là thái độ dũng cảm và biết chấp nhận hoàn cảnh và cháy lên sự khát khao hạnh phúc, yêu thương con người cùng cảnh ngộ như mình.
Tràng nghiêm túc với những quyết định của mình. Hắn đưa người “vợ nhặt” lên trên chợ tỉnh mua đồ. Hắn rất chu đáo và quan tâm đến người đàn bà của mình. Thế mới thấy, trong lúc nghèo đói như vậy mà tình người thật đáng quý.
Kim Lân đã thành công khi miêu tả tâm trạng của Tràng ở nhiều cung bậc cảm xúc khác nhau . Trên đường về, vẻ mặt hắn“có cái gì phơn phởn khác thường”, “tủm tỉm cười một mình”, “cảm thấy vênh vênh tự đắc” như thấy hãnh diện và rất hạnh phúc khi cưới được vợ giữa thời buổi khó khăn như thế này. Vì tâm trạng vui và hãnh diện nên Tràng mua dầu về thắp để khi vợ về đến nhà thì căn nhà trở nên sáng sủa hơn.
Khi về đến nhà, Tràng “xăm xăm” dọn dẹp nhà , “ngượng nghịu” thanh minh về sự bừa bộn vì thiếu bàn tay của người đàn bà. Sự chân thật của Tràng đến mộc mạc và khiến người đọc càng thêm thương cảm và dành sự cảm mến dành cho nhân vật Tràng. Hắn cũng có cảm giác lo lắng vì sợ người đàn bà này thấy gia cảnh của mình sẽ bỏ đi và bản thân Tràng thấy “sờ sợ” vì hạnh phúc có thể rời bỏ mình đi.
Diễn biến tâm trạng của Tràng được mô tả chân thực nhất khi diễn tả sự sốt ruột đợi bà cụ Tứ về để thưa chuyện.Hắn hiểu rằng cần phải xin phép ý kiến của mẹ và sợ mẹ không đồng ý. Điều này chứng tỏ hắn là người con biết lễ nghĩa. Đặc biệt, khi bà cụ Tứ về, Tràng thưa chuyện một cách nghiêm túc và trịnh trọng. Khi nhận được sự đồng ý của mẹ Tràng thở phào nhẹ nhõm.
Kim Lân đã miêu tả rất rõ nét tâm trạng thay đổi của Tràng qua việc miêu tả cảnh vật vào sáng hôm sau khi có vợ. Tràng nhận thấy sự thay đổi kỳ lạ trong ngôi nhà của mình . “Bỗng vừa chợt nhận ra những thứ xung quanh mình cái gì vừa thay đổi mới mẻ, khác lạ. Nhà cửa, sân vườn hôm nay đều được quét tước và thu dọn sạch sẽ, gọn gàng…”. Tràng cảm thấy hạnh phúc khi thấy người mẹ đang lúi húi giẫy cỏ và vợ quét lại cái sân… Khuôn mặt hắn tươi tỉnh hẳn lên “hắn cười khì khì” mặc dù đêm hôm qua hắn nghe thấy “tiếng khóc tỉ tê”, “diều quạ trên mấy cây ngoài bãi chợ cứ gào lên từng hồi thê thiết”.
Từ những điều giản dị đó , nhưng lại tràn đầy hạnh phúc như vậy về cuộc sống gia đình, trong lòng Tràng bỗng dưng thấy rõ bổn phận và trách nhiệm trong gia đình để gây dựng tương lai. “Bỗng nhiên hắn cảm thấy hắn yêu thương và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Tràng đã có gia đình. Tràng sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như cái tổ ấm để che mưa che nắng. Một niềm vui sung sướng và phấn chấn đột ngột tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người và hắn thấy hắn có bốn phận lo lắng cho vợ con sau này …”.
Bữa ăn sáng hôm đó tuy trông thật thảm hại và chỉ có lưng bát cháo và món “chè đặc biệt” – đó chỉ là miếng cám đắng chát , nghẹn bứ trong cổ và cảm thấy nỗi xót xa tủi hờn nhưng Tràng vẫn có niềm tin về phía trước “lá cờ đỏ bay phấp phới”.
Từ một người đàn ông thô kệch, hắn đã thay đổi tâm trạng và suy nghĩ khi “nhặt” được vợ. Dường như Tràng đã quên đi những khó khăn hiện tại để có niềm tin sẽ vượt qua hướng đến tương lai tươi sáng hơn. Và những điều đó cho chúng ta thấy rõ, dù trong hoàn cảnh nào và đói kém có rình rập tính mạng, thì con người vẫn khao khát tình yêu , được sống hạnh phúc của một gia đình và thậm chí còn bùng lên mãnh liệt hơn.
Kim Lân đã rất thành công khi miêu tả chi tiết về diễn biến tâm trạng của nhân vật Tràng. Ông đã đặt nhân vật vào tình huống éo le, độc đáo, để nhân vật tự bộc lộ tâm trạng và tính cách một cách rõ nét, chân thực. Với nghệ thuật dẫn truyện sáng tạo và ngôn ngữ bình dị, gần gũi, ông đã chạm đến đáy lòng của người đọc, giúp họ đồng cảm với nhân vật và đồng thời đã lấy đi nước mắt về cuộc sống cơ cực của người dân Việt Nam trong hoàn cảnh nạn đói lịch sự năm 1945. Nhân vật Tràng dù nghèo khổ nhưng tràn đầy ấm áp và yêu thương, niềm hy vọng, lạc quan trong cuộc sống, vào sự thay đổi xã hội. Đó cũng chính là giá trị nhân bản và nhân văn sâu sắc mà nhà văn Kim Lân muốn gửi tới bạn đọc.
Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của (Mẫu 2)
Bài phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt đạt điểm 9+ để các bạn tham khảo:
Văn học chính là lăng kính chủ quan để phản ánh hiện thực một cách khách quan và chính xác nhất. Bởi vậy nên nhà văn Kim Lân đã dùng ngòi bút của mình để phác họa thành công bức tranh về cuộc sống và sinh hoạt của người nông dân trong nạn đói năm 1945 qua tác phẩm “Vợ nhặt”. Nhà văn đã đem vào thiên truyện của mình một điểm sáng mới, đó chính là niềm tin và niềm hi vọng vào một tương lai tốt đẹp dù hiện tại có khó khăn đến nhường nào.
Kim Lân là nhà văn có sở trường về truyện ngắn và ngòi bút của ông thật sắc sảo khi tập trung miêu tả những gì phong tục tập quán và đời sống làng quê với những “thú vui đồng quê hay là phong lưu đồng ruộng”. “Vợ nhặt” là tác phẩm xuất sắc của Kim Lân được in trong tập “Con chó xấu xí”, viết về người nông dân trong tình cảnh thê thảm của nạn đói năm 1945 với bản chất tốt đẹp và lương thiện. Bằng khả năng sáng tạo của mình nhà văn đã thành công về mặt nghệ thuật miêu tả về tâm lí nhân vật và hàng loạt các biện pháp nghệ thuật đặc sắc khác khi xây dựng nhân vật của mình.
Có thể nói rằng Kim Lân đã thực sự xuất sắc khi dựng lên tình huống “nhặt vợ” của Tràng. Tình huống ấy là cánh cửa khép mở để nhân vật bộc lộ hết nét đẹp trong tâm hồn mình. Dường như trong đói khổ người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn với nhau khi miếng ăn của mình còn chưa đủ thì làm sao có thể đèo bồng thêm người này người kia. Trong tình huống ấy, con người dễ cấu xé nhau, dễ ích kỷ hơn là vị tha và người ta rất dễ đối xử tàn nhẫn lẫn nhau , làm cho nhau đau khổ. Nhưng tác giả Kim Lân lại khám phá ra một điều ngược lại ở các nhân vật Tràng và người vợ nhặt và bà cụ Tứ.
Chúng ta từng kinh hãi trước những “xác người chết đói ngập đầy đường”, “người lớn xanh xám như những bóng ma”, trước “không khí vẩn lên mùi hôi của rác rưởi và những mùi gây của xác người chết và cả mùi ớn lạnh trước “tiếng quạ kêu gào thảm thiết” ấy nhưng lại lạ thay chúng ta không thể cầm lòng xúc động trước nghĩa cử cao đẹp mà bình thường và dung dị ấy của Tràng, bà cụ Tứ và của người vợ nhặt nữa. Một thanh niên của cái xóm ngụ cư ấy như Tràng và một con người – thân xác vạm vỡ, lực lưỡng ấy dường như ngờ nghệch thô kệch và xấu xí ấy lại chứa đựng đầy những tình cao đẹp.
Sự đói nghèo bần hàn đó , vây quanh lấy hắn, nhưng trong đầu Tràng luôn hiện lên những suy nghĩ lạ lùng thỉnh thoảng lại thấy Tràng ngửa mặt cười một cái gì đó. Tràng thật sự là một con người kỳ lạ . Giữa khung cảnh nghèo đói và khổ cực ấy. Một con người xấu xí và thô kệch nghèo khổ như Tràng những tưởng vĩnh viễn phải sống kiếp cô độc vì chả có gì thu hút người khác thì làm sao mà lấy được vợ cơ chứ . Nhưng không ngờ Tràng vẫn có thể lấy được vợ, mà còn lấy được một cách dễ dàng “nhặt” được vợ như nhặt một cục đá mà thôi.
Chỉ bằng những câu nói bông đùa vu vơ, mà Tràng lại nhặt được vợ “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì ra đây đẩy xe bò với anh , Chỉ có những câu nói như thế thôi nhưng một cô gái ngoan ngoãn ra đẩy xe với hắn. Rồi theo hắn về nhà làm vợ. Kim Lân đã xây dựng tình huống truyện vô cùng thú vị, và độc đáo làm thay đổi số phận của nhân vật Tràng. Làm cho câu chuyển sang một hướng rẽ mới thú vị và thu hút người đọc. Hành động nhặt được vợ của Tràng khiến người ta phải suy nghĩ vì bởi việc lấy vợ lấy chồng là việc quan trọng trong đời người, bình thường người ta phải làm thật cẩn thận suy tính nhiều thứ trước khi lấy vợ . Cô gái làm vợ Tràng cũng thật thiệt thòi biết bao và làm vợ người ta mà không có một lễ cưới, không được làm dăm ba mâm ra mắt họ hàng cũng không có giấy đăng ký kết hôn và cũng không có chứng nhận của hai bên họ hàng.
Trước khi đưa vợ về nhà, Tràng đã rất chu đáo, mua cho vợ một chiếc thúng con mới và dẫn thị đi ăn một bữa thật no, mua những hai hào dầu để về thắp sáng trong nhà. Anh Tràng từ một kẻ thô kệch và lúc nào cũng nói chuyện một mình và cười hềnh hệch, hôm nay bỗng trở nên tâm lý và tinh tế đến lạ thường. Trên đường đi về Tràng vui sướng và hớn hở, miệng lúc nào cũng tủm tỉm cười. Khuôn mặt vừa hạnh phúc lại vừa rạng rỡ , vênh vênh tự đắc với chính mình. Cảnh sống cực khổ ê chề hàng ngày, hắn đã quên hẳn, mà chỉ sống trong niềm vui và niềm niềm hạnh phúc khi lấy được vợ.
Bước chân đến nhà Tràng bỗng ngượng nghịu và xấu hổ, đứng tây ngây giữa nhà, chợt thấy sợ sợ nhưng lại vừa hạnh phúc sung sướng khi việc mình lấy vợ đã trở thành sự thực. Điều Tràng mong ngóng nhất lúc này là đợi mẹ mình về nhà và để ra mắt nàng dâu mới. Lời giới thiệu vợ nhặt với mẹ cũng rất trân trọng, để nàng dâu bớt đi phần ngượng ngùng và xấu hổ. Tràng đã thay đổi là một con người khác hẳn, tâm lý và rất nhạy bén và rất khéo léo trong cách ăn nói. Dường như hạnh phúc mới này đã đem đến sự thay đổi lớn trong tâm lý và suy nghĩ của Tràng.
Bà đã chấp nhận người vợ nhặt của anh cu Tràng . Tình huống khiến người đọc nhớ mãi là hình ảnh khiến người đọc khi nhắc đến tác phẩm này đều không quên là những hình ảnh “nồi cháo cám” trong buổi bữa cơm đón dâu đầu tiên mà là hình ảnh “nồi cháo cám” là hiện thân của cái gọi là đói nghèo đến cùng cực trong một gia đình “không còn gì giá trị nữa”. Bà cụ Tứ hôm nay thay đổi tâm trạng và toàn nói những câu chuyện vui trong nhà, vì bà muốn mang lại không khí vui tươi hơn giữa cái nghèo. Hình ảnh “nồi cháo cám” hiện lên bình dị và đầy chua xót và nước mắt của người mẹ nghèo ấy . Ai cũng muốn có một bữa cơm để đón dâu có mâm cao và cỗ đầy trong ngày rước dâu nhưng gia cảnh nghèo nàn nên chỉ có , “nồi cháo cám” là thứ duy nhất đong đầy yêu thương bà có thể mang lại cho con dâu và Tràng .
Đến nhân vật này, tác giả Kim Lân tỏ rõ bút pháp miêu tả tâm lí nhân vật. Bà cụ Tứ đến mãi giữa câu chuyện mới xuất hiện nhưng nếu thiếu đi nhân vật này thì tác phẩm sẽ không có chiều sâu nhân bản. Đặt nhân vật bà cụ Tứ vào trong tác phẩm, tác giả Kim Lân đã cho chúng ta thấy rõ dàng hơn ánh sáng của tình người trong nạn đói. Bao giờ cũng thế, các tác giả muốn nhân vật nổi bật và cá tính của mình thường đặt nhân vật ấy vào tình thế rất căng thẳng. Ở đó dĩ nhiên phải có sự đấu tranh không ngừng nghỉ không những giữa các nhân vật mà độc đáo hơn là ngay trong chính nội tâm của mỗi nhân vật đó . Bà cụ Tứ là một người điển hình. Việc Tràng lấy được vợ đã gây một chấn động lớn trong tâm thức của người mẹ nghèo vốn thương con ấy. Bà rất ngạc nhiên và ngỡ ngàng trước sự xuất hiện của một người đàn bà trong nhà của mình mà lâu nay và có lẽ chưa bao giờ bà nghĩ đến. Hết ngỡ ngàng đến ngạc nhiên bà cụ đã “cúi đầu nín lặng”.
Cử chỉ và hành động ấy chất chứa bao tâm trạng. Đó là sự đan xen lẫn nhau giữa nỗi tủi cực và nỗi lo và cả niềm vui nỗi buồn cứ hoà quyện vào nhau khiến bà thật căng thẳng. Sau khi thấu hiểu mọi điều bà nhìn cô con dâu đang “vân vê tà áo rách bợt bạt” mà lòng bà đầy xót thương. Bà thiết nghĩ “người ta có gặp bước khó khăn này thì người ta mới lấy đến con mình, mà con mình vì thế mới có vợ”. Và thật xúc động, bà cụ đã nói, chỉ một câu thôi nhưng đã sâu xa và có ý nghĩa vô cùng “Thôi, chúng mày đã phải duyên phải kiếp với nhau thì u cũng mừng lòng”.
Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của (Mẫu 3)
Bài phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt do học sinh chuyên văn viết để các bạn tham khảo:
Nhà văn Kim Lân là một nhà văn tiêu biểu cho nền văn học hiện đại Việt Nam. Những tác phẩm của Kim Lân đều đi sâu vào đời sống của những người nông dân có hoàn cảnh éo le và khổ cực, bị cái gọi là nghèo đói trong xã hội bủa vây. Thông qua những lời văn chân thành và mộc mạc của mình nhà văn Kim Lân muốn tố cáo tội ác của giặc và của xã hội cũ, đề cao cuộc sống của con người.
Tác phẩm “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân được viết trong những năm 1945 khi mà nạn đói đang hoành hành tại miền Bắc của nước ta làm chết 2 triệu đồng bào. Ngòi bút của ông đã hướng tới những người nông dân vì hoàn cảnh chiến tranh phải từ bỏ quê hương mình đi tản cư ở một nơi khác. Những xóm làng mới đã được tập hợp những người ngụ cư vì thế mà được hình thành. Từ mảnh đất mới này nhiều mảnh đời đã ghép lại với nhau để trở thành những người thân và gắn bó thân thiết với nhau.
Vợ nhặt xoay quanh nhân vật Tràng một con người lao động chất phác và hiền lành, nhưng nghèo đói. Anh ta sống với một bà mẹ già yếu tại xóm ngụ cư toàn những cư dân mới từ khắp nơi đổ về làng . Ngày ngày Tràng hay làm nghề kéo xe bò chở hàng thuê cho người khác để kiếm ngày hai bữa. Cuộc sống mưu sinh vô cùng khốn khó đã khiến anh không lấy nổi vợ, và chẳng cô nào muốn lấy anh vì anh nghèo quá. Nhưng rồi một ngày tình cơ Tràng nhặt được một cô vợ rất xinh xắn và ngoan ngoãn .
Câu chuyện tưởng đùa mà hóa lại là thật. Chỉ một câu nói vui đùa của Tràng với cô gái ấy hoàn toàn xa lạ rằng “Muốn ăn cơm trắng với giò, thì lại đây đẩy xe bò với anh” chỉ một câu nói vui đùa vu vơ như vậy mà Tràng đã nhặt được môt cô vợ. Cô gái không có người thân thích và sống bơ vơ một mình ngoan ngoãn ra đẩy xe cho anh rồi theo anh về nhà chung sống suốt đời sống vợ chồng. Không có một đám cưới và cũng không có một bữa tiệc ra mắt gia đình hai bên, không có giấy đăng ký kết hôn được chính quyền xác nhận. Họ đã thành vợ thành chồng như thế rất đơn giản và mộc mạc.
Qua những lời văn đầy cảm động của tác giả Kim Lân muốn thể hiện sự xót xa cảm thông của mình với những con người thiệt thòi và bất hạnh. Chuyện hệ trọng trăm năm mới có một lần nhưng trong hoàn cảnh đất nước quá nghèo khó và giặc giã triền miên nên tất cả đều phải làm qua loa đại khái.
Nhân vật Tràng chính là nhân vật trung tâm xuyên suốt tác phẩm của Kim Lân, thông qua nhân vật Tràng nhà văn Kim Lân miêu tả những diễn biến tâm lý của nhân vật này từ những trạng thái này đến trạng thái khác. Tràng nghèo khổ và làm những công việc nặng nhọc, gia cảnh thì mẹ góa con côi. Tràng xuất hiện băng vài chi tiết “hắn bước ngật ngưỡng trên con đường khẳng khiu luồn qua cái xóm chợ của những người ngụ cư vào trong bến… hai con mắt nhỏ tí, gà gà đắm vào bóng chiều, hai bên quai hàm bạnh ra…bộ mặt thô kệch …”
Thông qua những chi tiết miêu tả về ngoại hình tính cách của Tràng đã khiến cho người đọc cảm nhận được Tràng là người xấu xí về ngoại hình và thô kệch về vóc dáng và là người có những suy nghĩ khác người, không phải là người có học thức và ít nho nhã. Hắn nghèo và gia đình thì chẳng có của ăn của để nào của ông cha đời trước. Hoàn cảnh gia đình rất là éo le, chỉ có hai mẹ con tự nương tựa vào nhau. Phải nói là Tràng đã nghèo lại còn xấu và không văn hay chữ tốt một người đàn ông như vậy làm sao mà có nổi vợ trong thời kỳ đất nước thái bình và không có chiến tranh, chạy loạn thì chắc chắn Tràng ế vợ cả đời.
Hình ảnh của Trang đã khiến cho người ta liên tưởng tới nhân vật Chí Phèo trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao. Nhưng Tràng có ưu điểm hơn Chí Phèo đó là ở chỗ dù cuộc sống nhiều khó khăn và vất vả nhưng Tràng vẫn lao động kiếm miếng ăn từ mồ hôi công sức mình bỏ ra. Không như Chí Phèo làm cái nghề ai cũng coi thường mình là “Rạch mặt ăn vạ”
Người đọc có thể cảm nhận được một điểm chung đó là của hai người đàn ông này là họ đều rất cô quạnh, bị xã hội nghèo đói xô đẩy. Cuộc sống khốn khổ đã khiến họ trở thành những con người khô cằn và chai sần về mặt cảm xúc của con người.
Tuy nhiên thì trong tác phẩm của mình và trong bối cảnh éo le, bần cùng đó nhà thơ Kim Lân đã mở ra những tình huống truyện tươi sáng và có lối thoát ,có những niềm hy vọng mới cho người nông dân Việt Nam thời đó và không như trong tác phẩm của nhà văn Nam Cao số phận của người nông dân thường vô cùng bế tắc và cùng cực và có kết thúc bi thảm làm người đọc nghẹn lời.
Trong tác phẩm “Vợ nhặt” của mình giữa thời kỳ đói khổ và tranh tối tranh sáng đó những con người bần cùng, xấu xí và thô kệch như nhân vật Tràng lại lấy được vợ mà chẳng tốn một đồng xu nào cả , chẳng phải mất thời gian tán tỉnh hay cưa cẩm,…Anh ta có được vợ như nhặt một viên đá ở ngoài đường mang về.
Tình huống nhặt được vợ của nhân vật Tràng là tình huống truyện vô cùng đắt giá và nó là cho câu chuyện của nhà văn Kim Lân trở nên có sức sống thu hút hơn người đọc. Và tạo niềm tin sống cho những con người khó khăn và khốn khổ.
Chính những nghèo khó khăn và cơ cực đã đẩy những con người cô đơn xích lại gần nhau gắn bó với nhau tạo thành những tổ ấm mới, xây dựng tương lai trong hoàn cảnh bần cùng của mình
Nhà văn đã vô cùng tinh tế khi miêu tả diễn biến tâm lý Tràng thay đổi trước và khi sau khi nhặt được vợ.”Trong lòng hắn bây giờ chỉ còn tình nghĩa giữa hắn với người đàn bà đi bên”.
Khi có vợ rồi Tràng trở nên hiền lành và dễ thương hơn, hắn vui vẻ phởn phơ khác những ngày thường. Khi nhìn thấy bóng dáng người vợ nhặt của mình ngồi giữa nhà hắn còn chưa tỉnh cơn mà hắn cứ tưởng nằm mơ “ngờ ngợ như không phải thế. Ra là hắn đã có vợ rồi đó ư”. Sự thật là hắn đã có vợ dễ dàng thế sao và cho đến chính hắn người trong cuộc mà còn không thể nào tin đó là sự thật, thì người ngoài đúng là khó lòng để tin nổi. Nhưng rồi hắn thấy lâng lâng trong lòng và cảm thấy có một nguồn sinh khí mới thổi vào trong tâm hồn héo úa bao nhiêu ngày tháng của hắn . Tràng cười và cảm thấy ngập tràn cảm giác mới mẻ.
Người vợ của hắn cũng thế, cô nàng không có một cái tên nên cứ tạm gọi tên là thị. Trước khi làm vợ Tràng và nhân vật Thị cong cớn, có chút chua ngoa của người phụ nữ trải qua nhiều khốn khổ và nhiều thăng trầm trong cuộc sống. Thị có chút bất cần và chút liều lĩnh, bởi nếu không bất cần và liều lĩnh thì Thị sẽ không vì một câu nói bông đùa mà theo không một người đàn ông về nhà làm vợ như thế. Nhưng có lẽ cuộc sống của Thị cũng rất đáng thương, sự nghèo đói và cô đơn của xã hội lúc đó khiến Thị không có sự lựa chọn thế nên thị theo Tràng về làm vợ người ta dù không có một tiệc cưới hay là một mâm cơm ra mắt họ hàng, không nhẫn cầu hôn, không đăng ký. Sự nghèo đói cô đơn đã tước đi của thị quá nhiều sự ưu ái mà bất kỳ người con gái nào khi theo chồng đều muốn có và đãng nhẽ phải có.
Duyên trời đã định đã xô đẩy những con người nghèo khổ nhất đến với nhau. Bữa cơm đầu tiên sau đêm thành vợ thành chồng của hắn và cô gái lạ cũng khiến người đọc phải rơi nước mắt về một bữa cơm quá giản dị nó chỉ là một nồi cháo cám và đắng chát trong mồm, nhưng hắn vẫn ăn ngon lành tâm trạng của hắn vẫn phấn khởi lắm
Người phụ nữ làm vợ hắn cũng dịu dàng đoan trang hơn rất nhiều và hai mảnh đời ghép lại với nhau để cùng hướng tới một tương lai tươi sáng. Hình ảnh kết thúc chuyện là lá cờ Việt Minh cướp kho thóc Nhật chia cho dân nghèo và là con đường ánh sáng, niềm tin vào tương lai mới cho những số phận người nông dân nghèo khổ.
Bằng ngòi bút chân thực, mộc mạc và giản dị, tình huống truyện độc đáo và rất hấp dẫn nhà văn Kim Lân đã khắc họa thành công nhân vật Tràng. Qua tác phẩm người đọc thấy được tinh thần nhân văn của nhà văn trước những số phận người nông dân nghèo khó.
Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của (Mẫu 4)
Bài phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt do học sinh trường chuyên viết để các bạn tham khảo:
Nói đến các nhà văn trong nền văn học hiện đại thì không thể không nói đến nhà văn Kim Lân. Và khi nói đến nhà văn Kim Lân thì người đọc sẽ nhớ ngay đến “Vợ nhặt”. Một trong những tác phẩm được xem là một trong những tác phẩm điển hình của văn học Việt Nam. Với “Vợ nhặt” nhà văn Kim Lân đã làm nổi bật nhân vật Tràng- hình tượng người nông dân hiền lành chất phác và giàu lòng yêu thương trong hoàn cảnh hết sức éo le ngang trái.
Dẫn dắt vào trong tác phẩm, thoạt tiên tác giả Kim Lân đã cho chúng ta biết được một vài nét về thân phận và địa vị của nhân vật. Tràng vốn là một người dân nghèo trong xóm ngụ cư sống cùng người mẹ già trong một căn nhà xiêu quẹo và rách nát. Và hằng ngày anh phải ra sức đẩy xe bò chở thóc mướn. Anh có vẻ ngoài xấu và thô kệch cùng đôi mắt nhỏ tí và thân hình vậm vạp. Trong xã hội cùng cực đau thương tủi nhục và với thân phận và địa vị như thế chắc chắn rồi cuộc đời của Tràng sẽ kết thúc trong sự cô đơn và tủi nhục.
Nhưng trong diễn biến của câu chuyện Tràng lại có vợ và có một gia đình hạnh phúc mà đến chính anh cũng ngỡ ngàng như đó không phải là sự thật. Nói cho đúng hơn là chính lòng thương người không đắn đo và toan tính đã trao tặng anh món quà “hạnh phúc”. Nhà văn Kim Lân đã xây dựng một tình huống hết sức độc đáo: Tràng đã “nhặt” được một cô vợ qua hai lần gặp gỡ. Lần thứ nhất khi anh đẩy xe bò lên một cái dốc. Anh hò chơi một câu cho đỡ mệt “Muốn ăn cơm trắng mấy giò này lại đây mà đẩy xe bò với anh nì”. Chủ tâm của anh không phải là để chọc ghẹo cô nào, nhưng không ngờ có một chị lại cong cớn lại chạy ra và giúp Tràng đẩy xe lên dốc. Lần thứ hai khi đang ngồi uống nước ở trên cổng chợ tỉnh thì người đàn bà xuất hiện và mắng Tràng “điêu”. Trong tình huống đó anh không biết làm sao cho hợp tình hợp lý. Anh mời chị ăn trầu nhưng chị lại không ăn trầu mà đòi ăn thứ khác. Tràng đành mời liều “muốn ăn gì thì ăn” thế là thị sà xuống ăn một lúc hết bốn bát bánh đúc. Ăn xong, Tràng nói một
câu mà như thể nói tầm phơ tầm phào “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về”. Nói đùa thế thôi và ai ngờ thị về thật. Lúc đầu Tràng phảng phất lo sợ về cái đói và cái chết “mới đầu anh cũng chợn, nghĩ: thóc gạo này đến cái thân mình còn chả biết có nuôi nổi không mà lại còn đèo bòng”. Đó là một nỗi sợ hãi có thật nhất lại là thời đói kém như thế này. Nhưng có lẽ tình thương người và khát vọng hạnh phúc đã lớn hơn cái nỗi sợ hãi nên sau đó anh chặc lưỡi” Chậc kệ!”. Chỉ một từ là “kệ” thôi, Tràng như đã bỏ lại sau lưng mình tất cả những nỗi sợ hãi và mọi lo nghĩ để vun vén cho cái hạnh phúc của mình.
Đọc lướt qua câu chuyện ta thấy ngỡ như việc “nhặt vợ” của Tràng là tình cờ nhưng nghĩ cho kĩ ta sẽ thấy rằng việc làm ấy xuất phát từ tình yêu thương của con người chân chính và tình thương người đã cho anh quyết định dứt khoát là đưa người đàn bà xa lạ về chung sống. Hành động ấy của Tràng còn tiềm ẩn rất nhiều khát vọng hạnh phúc lứa đôi và hạnh phúc gia đình mà trước đây anh không dám ao ước.
Chính những khát vọng và tình thương đã làm cho Tràng biến đổi từ dáng vẻ bên ngoài đến bên trong tâm hồn. “Mặt hắn có một vẻ gì hớn hở khác thường. Hắn tủm tỉm cười nụ một mình và hai mắt thì sáng lên lấp lánh”. Với cách miêu tả đó dường như trước mắt người đọc là một anh Tràng khác hẳn. Từ một con người mang mặc cảm về thân phận và một trái tim cằn cỗi nay lại hồi sinh.
Về đến nhà thì lúc đầu Tràng thấy “ngượng nghịu” rồi cứ thế “đứng tây ngây ra giữa nhà và chợt hắn thấy sờ sợ”. Nhưng đó chỉ là cảm giác thoáng qua thôi. Hạnh phúc lớn lao quá đã khiến Tràng lại lấy lại được thăng bằng nhanh chóng và lúc sau Tràng tủm tỉm cười một mình với ý nghĩ có phần ngạc nhiên sửng sốt và không dám tin đó là sự thật: “hắn vẫn còn ngờ ngợ như không phải thế. Ra hắn đã có vợ rồi đấy ư ?”. Đó là sự ngạc nhiên trong sự sung sướng.
Khi đã có vợ rồi niềm vui sướng trong anh tràn ngập và dường như anh đã quên đi cuộc sống tối tăm thường nhật và cảm nhận một sự thay đổi. Hắn ý thức được trách nhiệm, bổn phận của người chồng và người chủ gia đình “Bỗng nhiên hắn thấy hắn thương yêu và gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng…Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người và hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này”.
Từ một con người cục mịch và sống vô tư, chỉ biết việc trước mắt, hắn đã là người quan tâm đến những chuyện ngoài xã hội và khao khát sự được đổi đời. Khi tiếng trống thúc thuế ngoài đình vang lên vội vã và dồn dập, thì Tràng đã thần mặt ra nghĩ ngợi và đây là điều hiếm có đối với Tràng xưa nay. Trong ý nghĩ của anh ta lại vụt hiện ra cảnh những người nghèo đói ầm ầm kéo nhau đi để cướp kho thóc của Nhật Bản và đằng trước là lá cờ đỏ. Hắn nhớ tới cảnh ấy và lòng ân hận và tiếc rẻ và trong óc vẫn thấy đám người đói và lá cờ bay phấp phới…
Có thể nói truyện ngắn “Vợ nhặt” đã xây dựng rất thành công nhân vật Tràng-một anh nông dân nghèo khó nhưng giàu lòng yêu thương và đồng thời qua Tràng tác giả còn cho thấy sức sống mãnh liệt và diệu kì của con người Việt Nam trong khó khăn cuộc sống. Dường như càng đau khổ và mất mát người ta lại yêu thương nhau nhiều hơn. Và cũng lí giải được vì sao dân tộc ta làm làm nên thắng lợi của Cách mạng Tháng Tám.
Phân tích nhân vật Tràng trong Vợ Nhặt của (Mẫu 5)
Bài phân tích nhân vật Tràng trong tác phẩm Vợ Nhặt được thầy cô khen ngợi để các bạn tham khảo:
Vợ Nhặt là một tác phẩm tiêu biểu của tác giả Kim Lân, tác phẩm xuất sắc cho văn học Việt Nam được sáng tác vào năm 1945 giữa nạn đói khủng khiếp, thể hiện nội dung nhân đạo sâu sắc trong từng câu văn và hình ảnh, chi tiết của tác phẩm. Qua đó, người đọc ấn tượng với nhân vật Tràng, từ ngoại hình tính cách và gia cảnh, đến việc quan trọng nhất đời người là lấy vợ.
Truyện xoay quanh những tình huống anh Tràng nhặt được vợ trong hoàn cảnh đói khát. Ở nhân vật Tràng ,tác giả đã miêu tả với nhiều chi tiết nói về ngoại hình và tính cách, gia cảnh nhưng gần như tạo hóa không cho anh ta một điểm đáng tự hào nào cả: người thô kệch và lưng rộng như lưng gấu, đầu trọc và nhà nghèo, dân ngụ cư, nghèo kiết xác . Điểm ấn tượng nhất về bề ngoài là sự ngờ nghệch và có cái tật vừa đi lại vừa nói, vừa cười tủm tỉm một mình. Hơn nữa, Tràng sống với mẹ nghèo đến nỗi cái nhà hắn ở “rúm ró trên mảnh vườn mọc lổn nhổn những búi cỏ dại” mẹ góa con côi và tuy nhiên ở hắn cũng có điểm đáng quý: vui vẻ, dễ gần lại tốt bụng đối với lũ trẻ con trong xóm vẫn xúm lại trêu đùa và anh ta không bao giờ dám nghĩ đến chuyện mình có thể lấy nổi một cô vợ; tức là anh ta đã ế vợ và không đủ khả năng lấy được vợ. Hơn nữa đang trong cái thời điểm tất cả mọi người đều rơi vào nạn đói thê thảm nhưng thế mà anh ta lại nhặt được vợ một cách rất dễ dàng ngay giữa đường, giữa chợ chỉ qua vài câu nói vu vơ vui đùa.
Đã có người theo không về làm vợ và điều đó thật bất ngờ nhưng là niềm vui, hạnh phúc tột đỉnh trong cuộc đời của Tràng và hoàn cảnh nạn đói ghê gớm, bản thân Tràng lại rất nghèo vì không biết mình có nuôi nổi mình không cho nên sau lời nói đùa cho vui ấy , Tràng cảm thấy “chợn”, sợ đèo bòng. Tuy nhiên anh ta lấy vợ bằng một cái tặc lưỡi: “chậc,kệ!”. Cái tặc lưỡi vừa thể hiện sự buông xuôi cho số phận éo le , vừa thể hiện cái liều lĩnh của một kẻ không biết sợ là gì. Đồng thời cũng thể hiện niềm khao khát của một người lần đầu tiên có niềm vui hạnh phúc.
Hắn dẫn vợ về trong niềm vui khác lạ: ” Mặt hắn có vẻ gì hớn hở khác thường, hắn tủm tỉm cười nụ một mình, hai mắt thì sáng lên lấp lánh “. Lần đầu tiên có được niềm vui trong cuộc đời cho nên hắn quên hết những cảnh sống tăm tối hàng ngày, quên cả cái đói đang đe dọa ngay trước mắt cũng không sợ những ngày tháng đói khổ và ghê sợ ở phía trước…Có cái gì đó mới mẻ và lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông nghèo khổ ấy. Đó là cảm giác sung sướng và hạnh phúc của người đàn ông được biết thế nào là hạnh phúc: “hắn thích lắm, từ cha mẹ sinh mẹ đẻ đến bây giờ, chưa có người con gái nào cười với hắn tình tứ như thế. “Tràng nói đùa…ai ngờ Thị về thật”. Đúng là dẫu có cực khổ và cùng quẫn đến đâu, dẫu đói khát đến mấy thì người ta cũng luôn luôn khao khát hạnh phúc và chỉ nghĩ đến nó thôi đã thấy nó lấn lướt tất cả nỗi sợ hãi và kể cả lưỡi hái tử thần. Chính vì thế dù biết rằng” Thóc gạo này đến cái thân mình còn không biết mình có nuôi nổi không nhưng hắn vẫn chậc kệ đưa Thị về nhà để làm vợ mình .
Khi Thị về nhà hắn, hắn mới thực sự thấy lo và tâm trạng bỗng thiếu tự tin, bối rối như một đứa trẻ. Hắn nóng lòng và sốt ruột, mong mẹ về, khi mẹ về hắn mừng rỡ như đứa trẻ lật đật chạy ra đón. Lúc đó tâm trạng của Tràng phức tạp, đan xen rất nhiều cảm xúc: vừa mừng lại còn vừa lo. Sau những phút bối rối khi biết mẹ đã đồng ý. Như vậy là Tràng đã thay đổi hẳn khi Thị theo về làm vợ.
Sáng hôm sau hắn tỉnh dậy muộn nhưng vẫn chưa hết cảm giác ngỡ ngàng: “Việc hắn có vợ đến hôm nay hắn vẫn còn ngỡ ngàng như không phải”. Lần đầu tiên trong đời hắn nhận thấy niềm hạnh phúc thật giản dị đang hiện hữu ngay trong ngôi nhà của mình và vẫn là căn nhà ấy nhưng lâu nay nhếch nhác và bừa bộn nay được mẹ và vợ sắp đặt ngăn nắp và gọn gàng. Hắn nhận thấy ngôi nhà mới thực sự là tổ ấm của mình bấy lâu nay hắn vẫn ở trong ngôi nhà ấy nhưng hôm nay: “bỗng nhiên hắn thấy hắn thấy thương yêu gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng.” Đó chính là một gia đình và một nguồn vui sướng, phấn chấn khi hắn cảm nhận được sự hạnh phúc một gia đình. Bấy giờ hắn mới nhận thấy hắn “nên người”, hắn nhận thấy hắn có bổn phận chăm lo cho vợ con sau này.
Như vậy là niềm vui và hạnh phúc làm cho con người ta thay đổi, sự cưu mang và đùm bọc, yêu thương nhau làm cho con người cảm nhận cuộc đời trở nên có ý nghĩa hơn và trở nên tốt đẹp hơn và dẫu cùng đường thì con người ta vẫn luôn luôn yêu đời và nhân hậu, có trách nhiệm hơn, sống tốt hơn trong niềm hạnh phúc.
Tham khảo thêm: